1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Tài chính - Ngân hàng >

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1997 ĐẾN 2012.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.6 KB, 78 trang )


Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



Nguồn: TCTK.

Tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2012 của Việt Nam đạt mức 5,03%, theo công bố

tại cuộc họp báo chiều 24-12 của Tổng cục Thống kê. Mức này thấp hơn đáng kể so với

dự báo gần nhất là 5,2 - 5,3%. Cụ thể, GDP quý I tăng 4,64%, quý II tăng 4,80%, quý III

tăng 5,05% và quý IV tăng 5,44%. So với năm 2011, GDP năm nay giảm 0,86%.

1.1.2.Lạm phát.

Lịch sử kinh tế vĩ mô Việt Nam có 4 lần lạm phát lớn nhất: Mất cân đối tiền hàng

năm 1986-1991, khủng hoảng tài chính khu vực 1997-2000, lạm phát do tác động của

kinh tế thế giới năm 2008, và hiện tại. Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm

phát thấp nhất của Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%,

-0.6% và 0.8%. Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á

năm 1997 – 1998. Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai

đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007,

chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm. Năm 2008 là

một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI

đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã

lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng

22.97%. Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều

Lớp: CH21H



Page 19



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009

tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so

với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều. Năm 2010, chính

phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có thể không được

hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra, nền kinh tế hiện nay vẫn

còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng sắp tới.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao trong giai đoạn này trong đó có sự

tác động của chi phí đẩy bao gồm cả việc điều chỉnh tỷ giá (theo tính toán của

UBGSTCQG, việc điều chỉnh tăng tỷ giá 9,3% vào tháng 2/2011 có thể khiến CPI năm

2011 tăng thêm 1,2%.).

Hình 2: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam giai đoạn

1997 – 2011(%)



Nguồn: vietstock.vn

Theo công bố của Tổng cục Thống kê tại cuộc họp báo chiều ngày 24/12, CPI

tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước và cả năm 2012 tăng 6,81%. Như vậy, lạm

phát năm 2012 thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu đề ra là 8%. Kết quả này là rất tích cực so

với mức tăng 11,75% của năm 2010 và 18,13% của năm 2011.

Lớp: CH21H



Page 20



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



1.1.3.Đầu tư.

Nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam được thể hiện dưới 04 hình thức chính: (1)

Đầu tư trực tiếp (FDI); (2) Đầu tư gián tiếp (FII); (3) Tín dụng quốc tế (chủ yếu thu hút

qua hình thức thu hút vốn ODA); (4) Nguồn kiều hối gửi về Việt Nam hàng năm.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI): Giai đoạn 1998-2004, do tác động tiêu cực

của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nên trong số 3.968 dự án mới trong giai đoạn

này, phần lớn có quy mô nhỏ. Nếu năm 1998 có hơn 5 tỷ USD vốn đăng ký, thì sang

năm 1999 đã giảm còn một nửa với 2,565 tỷ USD và hồi phục dần đến năm 2004 là

4,547 tỷ USD. Giai đoạn 2005-2009, bắt đầu một làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam.

Đỉnh điểm là năm 2008 khi vốn đăng ký đạt hơn 71 tỷ USD. Giai đoạn từ năm 2010 đến

nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, tình hình thu hút

có chiều hướng giảm xuống. Cụ thể, năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đặt mục tiêu

thu hút khoảng 20-21 tỷ USD vốn FDI, nhưng kết quả là chỉ đạt 14,7 tỷ USD. Năm 2012,

mặc dù đã giảm mục tiêu thu hút xuống còn 15-17 tỷ USD, nhưng tính đến hết tháng 11,

Việt Nam mới thu hút được 12,181 tỷ USD, giảm 21,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Như

vậy, việc đạt mục tiêu này đang trở thành nhiệm vụ bất khả thi đối với Việt Nam.

Hình 3: Tốc độ tăng GDP khu vực FDI so với cả nước Việt Nam giai đoạn

1997 – 2011(%)



Lớp: CH21H



Page 21



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



Nguồn: kinhdoanh.vnexpress.net

Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII): Giai đoạn 1997-2002:Khủng hoảng tài chính

châu Á cũng có những tác động tiêu cực tới thu hút vốn FII vào Việt Nam. Từ năm 19982002 không có quỹ đầu tư mới ra đời. Trái lại, các quỹ “đua nhau” rút vốn, giảm quy mô:

5/7 quỹ rút khỏi Việt Nam; một quỹ thu hẹp 90% quy mô; chỉ còn duy nhất quỹ Vietnam

Enterprise Investment Fund (Veil) bám trụ. Giai đoạn 2003 đến nay: Từ năm 2003, dòng

vốn FII vào Việt Nam hồi phục, tăng dần từng năm và tăng đột biến vào năm 2006-2007.

Báo cáo của Ngân hàng ANZ cho biết, từ năm 2001-2006 vốn FII đạt khoảng 12 tỷ USD

và năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỷ USD. Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó khăn

của nền kinh tế, dòng vốn FII có dấu hiệu chững lại và một phần đã được rút ra. Từ cuối

quý II/2009, có sự đảo chiều và quay trở lại của vốn FII, nhưng không thật sự mạnh như

mong đợi. Trong năm 2010, nguồn vốn FII vào Việt Nam đạt 1,7 tỷ USD, năm 2011 đạt

mức 1 tỷ USD.

Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Lãi suất vay ODA thường thấp,

bình quân từ 2-4%/năm so với lãi vay thương mại. Nguồn vốn ODA vào Việt Nam gia

tăng đáng kể ở cả 3 giác độ: cam kết, ký kết và giải ngân. Trong đó, nguồn vốn dành cho

nhà đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm 40% tổng vốn ODA đã góp phần phát triển mạnh mẽ

kinh tế Việt Nam.

Nguồn kiều hối gửi về Việt Nam hàng năm: Trong 02 năm 2010-2011, bình

quân lượng kiều hối gửi về Việt Nam theo đường chính thức thông qua hệ thống ngân

hàng mỗi năm khoảng 9 tỷ USD; riêng năm 2012, mặc dù kinh tế thế giới và Việt Nam

còn rất khó khăn, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn không giảm, dự kiến năm nay,

kiều hối trên 10 tỷ USD. Như vậy, nếu tính từ năm 2006 đến nay, thì tổng lượng kiều hối

gửi về Việt Nam khoảng 55 tỷ USD. Đây là một lượng tiền rất lớn nằm trong dân cần

khai thác, đưa vào phục vụ đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.

1.1.4.Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 1997 đến 2012

1.1.4.1.Xuất khẩu và nhập khẩu từ năm 1997 đến 2011

Lớp: CH21H



Page 22



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



Thời kỳ 2007 đến 2011, hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những bước tiến

mạnh,một phần nhờ vào việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc

tế1. Trong giai đoạn 2007-2011, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trung bình đạt 56 tỷ

USD/năm; Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu tăng 33,3%, lên mức 96,26 tỷ USD.

Độ mở của nền kinh tế trong giai đoạn này có xu hướng tăng, tỷ lệ tổng kim ngạch

xuất nhập khẩu/GDP năm 2010 ở mức 155,4% và đạt 169,8% vào năm 2011.

Thời kỳ 2007 đến 2011, kim ngạch nhập khẩu có tốc độ tăng cao, đặc biệt trong

hai năm 2010 -2011, sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.Năm 2011, kim

ngạch nhập khẩu đạt 105,77 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2010.

Nhập siêu giai đoạn 2007-2010 tăng mạnh, bình quân đạt 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3

lần con số 3,8 tỷ USD của thời kỳ 5 năm trước. Tuy nhiên, tỷ lệ nhập siêu lại giảm mạnh

trong năm 2011.

Hình 4: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu giai đoạn 2006-2011

Đơn vị: triệu USD

Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK.

1.1.4.2.Xuất khẩu và nhập khẩu năm 2012

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

hàng hoá của cả nước trong tháng 3/2012 đạt 18,53 tỷ USD, tăng 9,8% so với tháng

trước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 9,48 tỷ USD, tăng 14,2 %; nhập khẩu là 9,06 tỷ

USD, tăng 5,6% so với tháng trước. Cán cân thương mại hàng hoá tháng 3 đạt mức thặng

dư 423 triệu USD.

Theo ghi nhận của Tổng cục Hải quan thì tính đến hết quí I/2012, tổng trị giá xuất

nhập khẩu hàng hoá cả nước là 49,39 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước;

trong đó xuất khẩu là 24,81 tỷ USD, tăng 24,2% và nhập khẩu là 24,58 tỷ USD, tăng

4,8%. Cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam quí I/2012 đã thặng dư 224 triệu

USD.

1



Lớp: CH21H



Page 23



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



Hình 5: Diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại hàng hoá

của Việt Nam theo tháng của năm 2011 và quý I/2012



Nguổn: customs.gov.vn

1.1.5.Thị trường tài chính

1.1.5.1.Thị trường chứng khoán (TTCK)

Năm 1998, TTCK Việt Nam chính thức ra đời. Từ đó đến năm 2005, thị trường

luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất

đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6

đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ

571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001.

Trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống

đến130 điểm. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà

đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng). Đến hết năm

2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69%

tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 4.500 tỷ đồng

cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ,

trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch .Trong năm 2005,



Lớp: CH21H



Page 24



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so với năm 2004, huy động được

44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt gần 1%.

Trong những năm 2006-2007, thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển khá

mạnh. Cả hai chỉ số VnIndex và HnxIndex đều đã đạt đỉnh vào đầu năm 2007 với các

mức lần lượt là 1.158,3 điểm và 459,4 điểm. Giai đoạn tiếp theo, do chịu ảnh hưởng từ

khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như những bất ổn từ kinh tế vĩ mô trong nước, thị

trường đi xuống mạnh trong năm 2008 và nửa đầu năm 2009. Những dấu hiệu phục hồi

được xác lập vào nửa cuối của năm 2009 với mức tăng khá cả về chỉ số cũng như khối

lượng giao dịch, nhưng sau đó thị trường trở lại với sự giằng co với xu thế giảm trong

suốt năm 2010 và giảm mạnh trong 2011. Thị trường chứng khoán Việt Nam là một

trong những thị trường sụt giảm mạnh nhất trên thế giới trong năm 2011. Thị trường

chứng khoán Việt Nam chịu ảnh hưởng và phản ánh những khó khăn, bất ổn vĩ mô như

lạm phát cao, hệ thống ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản, phần lớn doanh nghiệp

không đạt được kế hoạch doanh thu và lợi nhuận đặt ra. Xu hướng suy giảm chiếm ưu

thế rõ rệt với HNX-Index giảm 48,6%, VN Index giảm 27,5%. 62% số cổ phiếu trên cả 2

sàn có thị giá dưới mệnh giá.

Hình 6: Diễn biến VN Index và HNX Index



Nguồn: nfsc.gov.vn

Lớp: CH21H



Page 25



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



Thanh khoản thị trường sụt giảm mạnh với tổng giá trị giao dịch của cả 2 sàn

trong nhiều phiên dưới mức 1.000 tỷ đồng. Giá trị và khối lượng giao dịch bình quân 1

phiên tính chung cả HNX và HSX (theo phương thức khớp lệnh) trong năm 2011 là

790,72 tỷ đồng và 53,25 triệu cổ phiếu giảm 65% và 30% so với năm trước.

Mọi thứ không hẳn tốt đẹp, nhưng TTCK Việt Nam năm 2012 vẫn có những đợt

sóng đầy bất ngờ. Có lẽ chỉ cần không thể xấu hơn và giới đầu tư nhìn thấy triển vọng

tích cực là quá đủ để chứng khoán bật dậy mạnh mẽ. Kết thúc năm 2012, VN-Index đã

tăng 17.7% so với cuối năm 2011 đứng tại 413.73 điểm; HNX-Index kém tích cực hơn

khi giảm nhẹ 2.8% đứng ở mức 57.09 điểm. 3 giai đoạn với những con sóng bất ngờ:

Giai đoạn 1 (01/01 - 09/05): Đi lên từ vùng đáy khi triển vọng vĩ mô thôi xấu hơn; Giai

đoạn 2 (10/05 - 28/11): Vĩ mô không tiến triển, và cú sốc từ hàng loạt thông tin “hình

sự”; Giai đoạn 3 (29/11 – 31/12): Hào hứng với kế hoạch ”giải cứu” bất động sản và nợ

xấu ngân hàng.



Lớp: CH21H



Page 26



Bài tập nhóm 5



Hình



7:



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



Ba



giai



đoạn



thị



trường



chứng



khoán



năm



2012



1.1.5.2.Thị trường tiền tệ

Giai đoạn từ năm 1998 đến 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng, chính sách tiền tệ

nới lỏng theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 đến 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn

giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng được mở rộng. Trong 10

năm từ năm 1998 đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hang năm

khoảng 25% riêng năm 2007, con số đạt kỷ lục là 37,8%. Bên cạnh hoạt động tín dụng

tiền còn được lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ…



Lớp: CH21H



Page 27



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



Việt Nam bước vào giai đoạn 2011-2012 trong bối cảnh nền kinh tế trong nước

đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Lạm phát của thế giới có xu hướng tăng lên, trong

đó giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ (bản đầu vào của sản xuất), giá lương thực, và thực

phẩm trên thế giới tăng cao. Trong khi đó, vào năm 2011, giá cả trong nước tăng cao, áp

lực lạm phát ngày càng tăng lên do nhiều nguyên nhân nội tại của nền kinh tế tích lũy từ

trước đến nay và chính sách nới lỏng tiền tệ để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng

trong thời gian 2008-2010, làm tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta

Mục tiêu trung gian của CSTT 2011 là: điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ

tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%;

và mục tiêu trung gian của CSTT 2012 là: kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng 15%

-17%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14% -16%.

Bảng 1: Diễn biến cung tiền và tăng trưởng tín dụng 2004-2012

2004

22



2005 2006 2007

22 23-25 20-23



2008

32



2009

18-20



2010

25



2011

15-16



2012*

14-16



Tín



Thực hiện

Mục tiêu



30.4

25



29.6

33.6

46.1

25 18-20 17-21



20.3

30



29

21-23



33.3

25



12.4

20



17

15-17



dụng



Thực hiện



41.6



31.1



25.4



37.5



31.2



14.4



5.5



M2



Chỉ tiêu

Mục tiêu



25.4



53.9



Nguồn: NHNN

Tổng phương tiện thanh toán: Từ trước đến nay, NHNNVN đã chọn biến số khối

lượng tiền cung ứng M2 để tính toán Tổng phương tiện thanh toán, dùng hoạch định và

điều hành mục tiêu trung gian của CSTT. Xu hướng chênh lêch lớn giữa chỉ tiêu thực

hiện với mục tiêu đề ra và diễn ra liên tục, trong suốt cả thời kỳ dài từ 2004-2010, với

mức tăng M2 bình quân mục tiêu đề ra 24.14%/năm, thực hiện bình quân 31.17%, chênh

lệch + 7.03 điểm %. Mức chênh lệch của năm 2011 là +3.63% (mục tiêu 15-16%, thực

hiện 12.37%) và mức thực hiện của 2012 được dự báo khoảng 16-17%, vượt mục tiêu

không đáng kể, giảm 50% mức cung tiền thực tế thực hiện bình quân của 20042010.

Thanh khoản của hệ thống ngân hàng ngày càng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn: Áp

lực thanh khoản một mặt đẩy mặt bằng lãi suất tăng cao do các NHTM cạnh tranh huy

Lớp: CH21H



Page 28



Bài tập nhóm 5



GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa



động tiền gửi, mặt khác gây nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi CSTT được thắt chặt

để kiềm chế lạm phát. Về nguyên nhân, có thể thấy, việc tín dụng luôn tăng nhanh hơn M2

cũng góp phần làm tăng áp lực lên thanh khoản của hệ thống.

Bảng 2: Tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) giai đoạn 2008-2011

Đơn vị: %

Năm

LDR



2008 2009 2010

0,95

1,01

1,01

Nguồn: UBGSTCQG.



2011

1,02-1,03



Chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng ngày một xấu hơn do hệ quả tăng

trưởng tín dụng quá cao trong những năm qua trong khi năng lực quản lý rủi ro thấp và

những bất cập trong điều hành CSTT, lãi suất của cơ quan quản lý nhà nước. Nợ xấu

tăng nhanh trong khi tín dụng tăng thấp cho thấy chất lượng tín dụng đang suy giảm và

phản ánh những khó khăn của doanh nghiệp trong năm 2011, làm tăng rủi ro tín dụng

cho hệ thống ngân hàng.

Nợ xấu ngân hàng chưa được xử lý dứt điểm: Theo số liệu báo cáo của các tổ

chức tín dụng, tính đến ngày 30/9/2012, nợ xấu là 4,93%; còn theo đánh giá của NHNN,

nợ xấu khoảng 8,82%. Sự khác nhau giữa số liệu trong báo cáo và từ kết quả thanh tra,

theo giải thích từ phía NHNN, là do các ngân hàng đã phân loại và ghi nhận nợ trong báo

cáo gửi NHNN thấp hơn so với thực tế, nhằm giảm chi phí trong việc trích lập dự phòng

rủi ro. Đồng thời với số lượng số xấu tăng thì tốc độ tăng trưởng của nợ xấu cũng đáng

quan ngại, năm 2008 nợ xấu tãng 74%, nãm 2009 tăng khoảng 27%, năm 2010 tăng

41%, nãm 2011 tăng 64%, đến 10 tháng đầu năm 2012 tăng 66%.

1.1.5.3.Thị trường ngoại hối và vàng.

Tỷ giá danh nghĩa VND/USD có xu hướng ngày càng tăng cao, đặc biệt trong

những năm cuối của giai đoạn 2006-2011. Trong năm 2010, NHNN cũng đã 2 lần điều

chỉnh tỷ giá với mức tăng 5,5%. Đầu tháng 2/2011, NHNN phải tiếp tục điều chỉnh với

biên độ lớn (tới 9,3%). Kể từ đó đến nay, thị trường ngoại hối khá ổn định, tỷ giá thị

trường tự do đã kéo về sát, thậm chí có thời điểm còn thấp hơn so với tỷ giá niêm yết của

các NHTM.

Lớp: CH21H



Page 29



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

×