Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.6 KB, 78 trang )
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
cho xuất khẩu, đặc biệt là lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, thủy sản,...cũng không biến
động theo sự biến động của tỷ giá. Diễn biến đó thực tế cũng góp phần lớn vào việc ổn
định chỉ số giá tiêu dùng trên thị trường xã hội trong năm 2012.
Cho dù tỷ giá ổn định, hay thậm chí đồng Việt Nam “ lên giá nhẹ” thì cũng không
thể thiếu việc khuyến khích xuất khẩu. Tính chung từ đầu năm 2012 đến nay, trong bối
cảnh các thị trường xuất khẩu truyền thống và xuất khẩu lớn của Việt Nam gặp nhiều
khó khăn về kinh tế, giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giảm nhưng
tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của cả nước vẫn đạt 93,5 tỷ USD, tăng 18,4% so với
cùng kỳ năm 2011.
Tỷ giá ổn định tác động đến xuất nhập khẩu và đương nhiên là tác động đến nhập
siêu, ngược lại nhập siêu được hạn chế tác động lại việc thực hiện mục tiêu điều hành tỷ
giá. Nhập siêu giảm cũng lại là nguyên nhân quan trọng làm cho tỷ giá ổn định.
Tiếp theo, một tác động quan trọng khác của tỷ giá là góp phần tạo điều kiện cho
NHNN mua được một lượng lớn USD trên thị trường từ dân cư và các doanh nghiệp. Từ
đó, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, làm tăng sức mạnh của quốc gia, đưa
lượng dự trữ ngoại hối đến nay tương đương với trên 11 tuần nhập khẩu.
Bên cạnh đó, làm giảm tình trạng "đô la hóa" của nền kinh tế vốn đã lớn và tăng
lên trong mấy năm trước. Nhà nước đã huy động được một lượng ngoại tệ lớn trong dân
vào đầu tư phát triển và điều hành chính sách tiền tệ. Ngược lại, nguồn quỹ dự trữ ngoại
tệ do Ngân hàng Trung ương quản lý dồi dào cũng là cơ sở quan trọng cho bình ổn tỷ
giá, sẵn sàng can thiệp, đóng vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng, chủ động đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu các mặt hàng chiến
lược khi cần thiết và nếu có nhu cầu.
Hơn nữa, sự ổn định tỷ giá cũng tác động tích cực đến thị trường vàng. Cũng
giống như các mặt hàng nhập khẩu khác, tỷ giá ổn định không làm cho giá vàng ở trong
nước tính bằng VND bị tăng kép, vừa do giá vàng tính bằng USD tăng, vừa do tỷ giá
VND/USD tăng. Khi tỷ giá VND/USD ổn định, giá vàng ổn định, sẽ có tác động ổn định
tâm lý, làm giảm tâm lý lạm phát, bởi vàng và USD thường được chọn là nơi trú ẩn mỗi
khi lạm phát cao.
Cũng từ diễn biến đó tác động tích cực đến mục tiêu ổn định tỷ giá, giảm hẳn tình
trạng người dân “đổ xô” đi mua vàng ở nhiều nơi, hạn chế việc mua vàng tích trữ, giảm
Lớp: CH21H
Page 44
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
nhu cầu ngoại tệ cho mua vàng. Thành công này còn do thực hiện có hiệu quả việc quản
lý thị trường vàng theo chủ trương của Chính phủ, mục tiêu điều hành của NHNN.
Tỷ giá ổn định tác động tích cực đến nợ nước ngoài của Việt Nam nói chung và
nợ công nói riêng. Bởi vì, nếu như tỷ giá chỉ cần tăng thêm 3-4% thôi thì mỗi năm số nợ
của nước ta tính ra nội tệ tăng thêm hàng chục nghìn tỷ đồng, bằng số thu ngân sách một
năm của trên 10 tỉnh miền núi.
2.2.Nguyên nhân.
Giữ ổn định tỷ giá cũng là thành công nổi bật của NHNN, nhất là sau những năm
sóng gió liền trước. Những nguyên nhân cho thành công, và yếu tố “may mắn” từ kinh tế
suy giảm:
Trước hết, cần nhìn lại điểm xuất phát của quãng bình yên tỷ giá USD/VND từ
quý 2/2011. Điểm được cho là quyết định khi Ngân hàng Nhà nước tạo “cú nổ” ngày
11/2/2011, hút mạnh không khí căng thẳng kỳ vọng tăng tỷ giá vào bước tăng 9,3%,
đồng thời biên độ tỷ giá được thu hẹp từ +/-3% về +/-1%.
- Thu hẹp hẳn biên độ đồng nghĩa với việc lấy lại quyền giám sát và điều hành
cho Ngân hàng Nhà nước trên danh nghĩa. Một biên độ rất rộng trước đó, có giai đoạn
lên tới +/-5%, đã trao quá nhiều quyền lực cho thị trường, cũng như tạo một vùng quá
rộng để tỷ giá có thể biến động mạnh. - Đây là dấu ấn đầu tiên trong điều hành, nối tiếp
là việc siết lại kỷ cương thị trường, thậm chí đẩy mạnh kết hối để giảm tình trạng găm
giữ ngoại tệ… Thị trường ngoại hối bắt đầu ổn định.
- Cuối năm 2011 và suốt 2012, một yếu tố không kém quan trọng là Thống đốc
Nguyễn Văn Bình đã “neo giữ” được tâm lý - kỳ vọng thị trường, khi tuyên bố sẽ kiểm
soát được một biên độ biến động hợp lý.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo đuổi chính sách định giá VND cao,
giữ chênh lệch lãi suất VND với USD ở mức hấp dẫn, trong khi áp lực lạm phát suy
giảm. Điều này góp phần quan trọng làm giảm cầu găm giữ ngoại tệ. Bằng chứng là xu
hướng dịch chuyển tiền gửi ngoại tệ sang VND liên tục được duy trì. Thêm nữa, một
lượng lớn các dòng ngoại tệ từ nước ngoài đổ về (vốn đầu tư gián tiếp, kiều hối, tiền gửi
và vay mượn từ nước ngoài ...) được chuyển ra VND gửi vào ngân hàng hưởng chênh
Lớp: CH21H
Page 45
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
lệch lãi suất (hoạt động carry trade), góp phần làm tăng cung ngoại tệ, kéo tỷ giá đi
xuống.
Thứ ba, cũng cần phải kể đến các biện pháp hành chính mạnh trấn áp thị trường
ngoại tệ tự do, đặc biệt là việc tách được sự lôi kéo của thị trường vàng qua chính sách
mới về quản lý kinh doanh vàng. Hoạt động nhập khẩu, nhập lậu vàng đã được cắt bỏ,
giúp ngăn chặn được nạn đầu cơ ngoại tệ gây cầu ảo - một nguyên nhân nổi bật trước
đây.
Và thứ tư, yếu tố “may mắn” trong điều hành tỷ giá - thậm chí nguyên nhân chính
yếu, là cầu ngoại tệ giảm mạnh do kinh tế khó khăn. Cầu ngoại tệ để nhập khẩu nguyên
vật liệu, máy móc thiết bị, thậm chí cả hàng tiêu dùng giảm mạnh do tổng cầu suy yếu,
sản xuất kinh doanh đình đốn trong năm 2012.
Tuy nhiên, triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2013 tiếp tục khó khăn với
điểm thắt lớn nhất là thị trường bất động sản. Các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô cạn
kiệt dư địa hoặc ít khả thi, kém hiệu lực. Mọi phương sách kinh tế mới đây mang nặng
tính “kế sách chính trị”. Và như vậy, các yếu tố thuận lợi, giúp cho việc duy trì tỷ giá
hiện tại, cơ bản vẫn còn.
2.3.Những hạn chế.
Thực tế, tuy trong ngắn hạn, tỷ giá USD/VND sẽ tiếp tục xu hướng ổn định,
nhưng trong trung và dài hạn, xu hướng phá giá VND là tất yếu và với áp lực ngày càng
gia tăng do tỷ giá thực hiệu dụng đa phương REER tiếp tục tăng, đặc biệt tăng nhanh hơn
trong nửa cuối 2012.
Cụ thể, việc giữ tỷ giá cố định suốt giai đoạn vừa qua, tuy giúp NHNN rảnh tay để
đối phó với vấn đề lạm phát trong nước, nhưng sẽ tích tụ thêm khó khăn cho tương lai
khi khu vực xuất khẩu bị thiệt hại vượt quá điểm cân bằng giữa lợi ích và chi phí của
việc neo giữ tỷ giá đối với nền kinh tế.
Một nguy cơ tiềm ẩn nữa là dòng tiền đầu cơ hưởng chênh lệch lãi suất (carry
trade) có thể đảo chiều khi xảy ra kịch bản tồi tệ nhất - tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế
với ba trọng tâm, vượt khỏi tầm kiểm soát của Chính phủ làm kinh tế vĩ mô chìm sâu vào
bất ổn với lạm phát gia tăng trở lại.
Lớp: CH21H
Page 46
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Điểm cần lưu ý ở đây là quy mô dòng tiền trên là lớn đáng kể khi mà chỉ riêng
lượng tiền gửi VND của người không cư trú (chủ yếu dưới 12 tháng) hiện chiếm tới gần
1/5 tổng vốn huy động thị trường 1 của hệ thống ngân hàng, mức lớn hơn cả quỹ dự trữ
ngoại hối nhà nước.
Ở một khía cạnh khác, cung ròng VND của Ngân hàng Nhà nước ra nền kinh tế
hiện chủ yếu được thực hiện qua kênh mua vào ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối, nguyên
nhân chính giúp thanh khoản hệ thống trở nên dồi dào. Tuy nhiên, phần lớn lượng tiền
gửi ngân hàng gia tăng lại không được cho vay ra nền kinh tế, thay vào đó, là đầu tư vào
trái phiếu Chính phủ hoặc quay trở lại Ngân hàng Nhà nước qua kênh tín phiếu.
Và với thực trạng hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam, vấn đề trên đang gây hiệu
ứng chèn lấn (crowding out), tác động tiêu cực đến nỗ lực hạ mặt bằng lãi suất của chính
Ngân hàng Nhà nước và làm tăng nguy cơ lạm phát sớm quay lại, sẽ là rủi ro tỷ giá tiềm
ẩn cho năm 2013 và những năm tiếp theo.
Tóm lại, tuy diễn biến tỷ giá VND/USD trong năm 2012 là ổn định nhưng năm
2013 vẫn tiềm ẩn rủi ro biến động và áp lực ngoại hối thể hiện ở các yếu tố sau:
- Triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2013 tiếp tục khó khăn với điểm thắt
lớn nhất là thị trường bất động sản và nợ xấu tại hệ thống ngân hàng và DN;
- Trong bối cảnh kiềm chế lạm phát, tỷ giá được giữ cố định là một cái neo kỳ
vọng tích cực, song cũng cần phải có lộ trình điều chỉnh thích hợp đặc biệt là khi tình
hình lạm phát đã được cải thiện, tỷ giá thực hiệu lực (REER) diễn biến chưa thuận lợi để
tránh tạo ra những thay đổi đột biến trong bối cảnh kinh tế nhạy cảm và khó khăn như
hiện nay;
- Tính ổn định của cán cân vãng lai chưa thật sự bền vững;
- Việc mua vào hơn 10 tỷ USD để thực hiện tăng dự trữ ngoại hối quốc gia đã kéo
theo tăng nguồn cung ròng VND của NHNN trong năm 2012. Tuy nhiên, trong điều kiện
chịu tác động từ diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và những khó khăn nội tại của
nền kinh tế Việt Nam năm 2012 đã cho thấy, lượng tiền gửi ngân hàng gia tăng lại không
chảy vào nền kinh tế, thay vào đó là đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc quay trở lại
NHNN qua phát hành tín phiếu. Bên cạnh đó, nếu không nâng cao hiệu quả đầu tư công
ở Việt Nam, thì sẽ tác động tiêu cực đến nỗ lực hạ mặt bằng lãi suất của chính NHNN,
Lớp: CH21H
Page 47
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
làm tăng nguy cơ lạm phát sớm quay lại, sẽ là rủi ro tỷ giá tiềm ẩn cho năm 2013 và
những năm tiếp theo.
Lớp: CH21H
Page 48
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA
TRUNG QUỐC VÀ THÁI LAN
1.CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC
1.1. Chính sách tỷ giá của Trung Quốc qua các giai đoạn từ năm 1997 đến 2012
Từ năm 1949 đến nay, Trung quốc đã có những thay đổi lớn về chính sách tỷ giá.
Có thể chia thành 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1949 đến năm 1979: Giai đoạn này nền kinh tế Trung
quốc gặp nhiều khó khăn.Trung quốc thực hiện quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, chính phủ thống nhất và tập trung quản lý các hoạt động ngoại hối. Trung quốc
thực hiện chế độ tỷ giá cố định gắn đồng NDT luôn cao hơn giá trị thực của nó. Ngân
hàng nhân dân Trung quốc là cơ quan duy nhất công bố tỷ giá mua bán ngoại tệ của cả
nền kinh tế.
Giai đoạn thứ hai: Từ năm 1979 đến năm 1993: Thời kỳ chuyển từ chính sách cố
định sang thả nổi theo sát với những diễn biến tỷ giá thị trường
Năm 1979, Trung quốc tiến hành cải cách kinh tế. Nhiều chính sách kinh tế mới
được ban hành nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Trung quốc chú
trọng phát triển cơ sở hạ tầng, các ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ, khuyến khích các
nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là Hoa kiều đầu tư vào trong nước để xuất khẩu thu ngoại
tệ. Chính phủ Trung quốc bảo lãnh việc cân đối ngoại tệ cho các dự án xuất khẩu thu
ngoại tệ.
Để phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế, chế độ tỷ giá cũng có thay đổi, bên
cạnh tỷ giá chính thức do ngân hàng nhân dân Trung quốc công bố, sử dụng để hạch
Lớp: CH21H
Page 49
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
toán, tính thuế xuất nhập khẩu, Trung quốc cho phép một loại tỷ giá thứ hai được tồn tại,
sử dụng để mua bán, giao dịch trên thị trường ngoại tệ.
Chính sách tỷ giá thời kỳ này giúp TQ đẩy mạnh xuất khẩu, giảm thâm hụt
CCTM, CCTT và đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng
Năm 1991, Trung quốc chuyển từ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý. Tỷ giá trao đổi của đồng NDT thường xuyên dao động, đồng NDT hầu như hạ
giá.Tỷ giá danh nghĩa giữa đồng NDT với USD tương đối ổn định ở mức 5.2 -> 5.8
NDT/USD Lạm phát cao TQ, tác động xấu tới mục tiêu tăng trưởng và thúc đẩy xuất
khẩu.
Giai đoạn thứ ba: Từ năm 1994 lại đây. Thời kỳ phá giá mạnh đồng NDT và thống
nhất hai tỷ giá hướng tới một đồng NDT có khả năng chuyển đổi
Để khắc phục các khó khăn do thị trường tự phát gây nên, để thực hiện kế hoạch
mở cửa kinh tế đối ngoại, đồng thời tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mại, Trung
quốc đã đưa tỷ giá chính thức lên ngang bằng với tỷ giá thị trường. Việc điều chỉnh
thống nhất hai loại tỷ giá được thực hiện từ ngày 01/01/1994. Trung quốc đã cho đồng
nhân dân tệ phá giá tới 35%, tỷ giá chính thức được điều chỉnh từ mức 5,7 NDT/USD lên
8,7 NDT/USD. Kèm theo đó là các quy định xóa bỏ chế độ tự giữ ngoại hối, các doanh
nghiệp thực hiện chế độ kết hối ngoại tệ 100%, các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ
thanh toán hàng nhập khẩu được mua ngoại tệ tại các ngân hàng được phép.
Từ năm 1994 đến nay Trung quốc đã thực hiện chuyển đổi tỷ giá theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, tuy nhiên trên thực tế Trung quốc vẫn thực hiện cơ
chế tỷ giá cố định gắn với đồng USD. Những thay đổi của chính sách tỷ giá bắt đầu từ
năm 1994 lại đây đã góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Trung
quốc. Trước năm 1994, Trung quốc luôn bị thâm hụt thương mại, cán cân vãng lai thiếu
ổn định.
Lớp: CH21H
Page 50