Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.6 KB, 78 trang )
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
4.2.1.Mục tiêu ổn định giá cả:
Với các yếu tố khác không đổi, khi phá giá nội tệ ( tỷ giá tăng) làm cho giá hàng
hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng. Giá hàng hóa nhập khẩu tăng làm cho mặt bằng giá
cả chung của nền kinh tế tăng, tức gây lạm phát. Tỷ giá tăng càng mạnh, và tỷ trọng hàng
hóa nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ lạm phát càng cao.
Và ngược lại, khi nâng giá nội tệ ( tỷ giá giảm) làm cho giá hàng hóa nhập khẩu
tính bằng nội tệ giảm, tạo áp lực giảm lạm phát.
Qua đó việc sử dụng chính sách tỷ giá như một công cụ hữu hiệu nhằm đạt được
mục tiêu bình ổn giá cả. Khi các yếu tố khác không đổi, muốn kiềm chế lạm phát,
NHTW có thể sử dụng chính sách tăng giá nội tệ, muốn kích thích gia tăng lạm phát thì
có thể sử dụng chính sách giảm giá đồng nội tệ.
4.2.2.Mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm:
Khi các yếu tố khác không đổi việc sử dụng chính sách tỷ giá làm phá giá đồng
nội tệ sẽ làm cho:
Kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, trược tiếp làm tăng thu nhập
quốc dân và tăng công ăn việc làm. Phá giá đồng nội tệ làm cho những ngành sản xuất
không sử dụng hoặc ít sử dụng nguyên liệu đầu vào là hàng nhập khẩu sẽ tăng được lợi
thế cạnh tranh về giá so với hàng nhập khẩu, từ đó mở rộng được sản xuất, tăng thu nhập
và tạo thêm công ăn việc làm mới.
Ngược lại, khi các yếu tố khác không đổi, tăng giá đồng nội tệ, sẽ tác động làm
giảm tăng trưởng kinh tế và gia tăng thất nghiệp.
Chính sách tỷ giá có thể được sử dụng như một công cụ nhằm đạt được mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và tăng công ăn việc làm. Hay khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng
có thể sử dụng chính sách nâng giá nội tệ để kìm hãm tốc độ tăng trưởng quốc tế.
4.2.3.Mục tiêu cân bằng cán cân vãng lai:
Thông qua việc thay đổi các chính sách tỷ giá sẽ tác động trực tiếp hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, là hai bộ phận chủ yếu cầu thành cán cân vãng lai. Do dó
có thể nói chính sách tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân vãng lai.
Lớp: CH21H
Page 12
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
-Với chính sách tỷ giá định thấp đồng nội tệ sẽ có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu và
hạn chế nhập khẩu, giúp cải thiện được cán cân vãng lai từ trạng thái thâm hụt trở về
trạng thái cân bằng hay thặng dư.
-Với chính sách tỷ giá định giá cao nội tệ sẽ có tác dụng kìm hãm xuất khẩu và
kích thích nhập khẩu, giúp điều chỉnh cản cân vãng lai từ trạng thái thặng dư về tráng
thái cân bằng hay thâm hụt.
-Với chính sách tỷ giá định giá cân bằng dẽ có tác dụng làm cân bằng xuất khẩu và
nhập khẩu giứ cắn cân vãng lai tự động cân bằng.
4.3.Các nội dung của chính sách tỷ giá.
4.3.1.Phá giá tiền tệ
Trong chế độ tỷ giá cố định Phá giá tiền tệ là việc Chính phủ đành tụt giá đồng nội
tệ so với đồng ngoại tệ. Biểu hiện của phá giá tiền tệ là tỷ giá được điều chỉnh tăng so
với tỷ giá được Chính phủ cam kết duy trì trước đó. Tỷ giá tăng làm đồng nội tệ giảm
giá. Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của tiền
tệ giảm sút mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, khi mà trong
suốt thời gian dài TGHĐ biến động mạnh thì vấn đề xác định lại TGHĐ là điều không
thể tránh khỏi, song các nhà nước không thừa nhận điều đó, họ phá giá tiền tệ lúc nào,
mức độ ra sao là phụ thuộc vào mục đích kinh tế và chính trị của họ. Phá giá tiền tệ đã
trở thành một chính sách kinh tế, tài chính của nhà nước để tác động đến TGHĐ và cán
cân thanh toán quốc tế.
Phá giá tiền tệ là sự tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ thấp hơn
sức mua thực tế của nó.
Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nước tiến hành phá giá có thể là:
+ Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, hạn chế nhập khẩu hàng hoá, do đó có tác
dụng khôi phục lại sự cân bằng của cán cân ngoại thương, nhờ vậy góp phần cán cân
thanh toán quốc tế.
+ Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối và hạn chế xuất khẩu vốn ra bên ngoài
cũng như chuyển tiền ra ngoài nước, do đó có tác dụng làm tăng khả năng cung ngoại
hối, giảm nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó TGHĐ sẽ giảm xuống.
Lớp: CH21H
Page 13
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
+ Khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài, vì vậy
quan hệ cung và cầu ngoại hối bớt căng thẳng.
Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình của cán
cân thương mại.
Tuy vậy, tác dụng cải thiện cán cân thương mại có trở thành hiện thực hay không
còn phụ thuộc vào khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của nước tiến hành phá giá tiền tệ và
năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của nước đó.
4.3.2.Nâng giá tiền tệ
Trong chế độ tỷ giá cố định, nâng giá tiền tệ là việc Chính phủ tăng giá đồng nội
tệ so với các ngoại tệ. Biểu hiện của nâng giá tiền tệ là tỷ giá được điều chỉnh giảm so
với tỷ giá Chính phủ đã cam kết duy trì trước đó.
Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn toàn
ngược lại với phá giá tiền tệ. Ngày nay, việc nâng giá tiền tệ thường do các nguyên nhân
sau:
+ Do áp lực các nước khác muốn tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá của họ
vào quốc gia có cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế dư thừa.
+ Tránh những đồng tiền mất giá “chạy trốn” vào nước mình.
+ Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” muốn làm “lạnh” nền kinh tế
để tránh khủng hoảng về cơ cấu thì sẽ nâng giá về tiền tệ để giảm xuất khẩu hàng hoá,
giảm đầu tư vào trong nước mình.
+ Phục vụ cho việc chuyển vốn đầu tư ra bên ngoài xây dựng một nền kinh tế của
mình “trong lòng” các nước khác nhằm giữ vững thị trường bên ngoài, vấn đề sống còn
của nền kinh tế mỗi quốc gia.
Nâng giá tiền tệ trong những điều kiện hiện nay thường xảy ra dưới áp lực của
nước khác mà các nước này mong muốn tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình
vào nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa.
4.3.3.Giữ tỷ giá ở mức cố định không can thiệp
4.4.Các công cụ của chính sách tỷ giá.
Lớp: CH21H
Page 14
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
4.4.1.Các công cụ trực tiếp.
-Hoạt động mua bán của NHTW trên thị trường ngoại hối
Là hoạt động của NHTW các nước trong việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì
một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố định) hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi
đến một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả nổi). Để tiến hành
can thiệp thì NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Các hoạt động thay
đổi cung tiền trong lưu thông có thể làm cho nền kinh tế bị áp lực lạm phát hoặc thiểu
phát chính vì vậy đi kèm với các hoạt động can thiệp trục tiếp thì NHTW phải sử dụng
thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hoặc bổ sung sự thiếu hụt tiền tệ
trong lưu thông .
+ Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ: Đây là nghiệp vụ dễ dàng thực hiện và có tác
động trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.Nghiệp vụ này tác động đến cung tiền trong nước,
NHTW đóng vai trò là người mua bán tiền tệ trực tiếp cuối cùng trên thị trường liên ngân
hàng tại một mức tỷ giá nào đó.Để công cụ này có hiệu quả thì quốc gia phải có lượng
dự trữ ngoại tệ lớn.
+ Nghiệp vụ thị trường mở thuần tuý: Nghiệp vụ này được sử dụng để thay đổi
lượng cung tiền lưu thông từ đó làm thay đổi tỷ giá hoặc lãi suất thông qua việc mua bán
các giấy tờ có giá.
-Biện pháp kết hối
Là việc chính phủ quy định với các thể nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ
phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép
kinh doanh ngoại hối.
Biện pháp này được áp dụng trong thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị
trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp này là tăng cung ngoại tệ để đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phá giá đồng nội
tệ.
-Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ
Lớp: CH21H
Page 15
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Quy định hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng người
mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời điểm mua ngoại tệ .Tất cả các biện pháp này để
giảm áp lực thiếu hụt ngoại tệ, tránh đầu cơ và giữ cho tỷ giá cố định.
Với xu thế mở cửa nền kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính thì
các biện pháp can thiệp hành chính ngày càng trở nên không phù hợp. Chính vì vậy xu
thế thế giới là ngày càng hạn chế can thiệp hành chính và chuyển sang sử dụng các công
cụ thị trường.
4.4.2.Các công cụ gián tiếp.
-Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW đánh vào các khoản tiền cho các NHTM
vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Lãi
suất tái chiết khâu là một công cụ của chính sách tiền tệ để điều chỉnh lượng cung tiền và
nó có tác động đến tỷ giá hối đoái. Đây là một công cụ điển hình đạt được nhiều hiệu quả
cao trong các công cụ tác động gián tiếp đế tỷ giá.
Khi dự trữ tiền mặt giảm xuống gần bằng với tỷ lệ an toàn tối thiểu thì NHTM cần
cân nhắc việc có nên tiếp tục cho khách hàng hay không và chi phí của các khoản cho
vay đó khi nhu cầu rút tiền của các khách hàng cũ tắng cao đột biến (nếu xảy ra) như thế
nào.
Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thì trường thì các NHTM sẽ
tiếp tục cho vay cho đến khi tiền mặt dự trữ đạt đến tỷ là an toàn tối thiểu bởi vì nếu xảy
ra trường hợp các ngân hàng này thiếu tiền thì chính họ sẽ đi vay của NHTW về để thanh
toán lại cho khách hàng mà vẫn không bị lỗ.
Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường thì các NHTM sẽ không mại
hiểm cho vay quá nhiều mà sẽ hạn chế lại các khoản tín dụng sao cho đảm bảo khả năng
thanh toán.
Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu thì mặt bằng lãi suất thị trường sẽ tăng hấp
dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm nội lên giá và ngược lại.
-Thuế quan
Lớp: CH21H
Page 16
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Thuế quan cao có tác dụng hạn chế nhập khẩu, cầu ngoại tệ giảm, nội tệ lên giá
(và ngược lại).Vì vậy cho nên không nên áp đặt một mức thuế quá cao sẽ dẫn tới khả
năng xuất khẩu bị giảm sút (do nội tệ lên giá), thuế quan cũng gây ra tệ nạn buôn lậu,
thuế càng cao buôn lậu càng tăng và những điều này làm giảm phúc lợi chung do đó làm
giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế.
Đối với những nước có nền sản suất non trẻ thì thuế quan cũng là một cách để bảo
hộ trước sự tấn công của hàng hoá các nước khác.
-Giá cả
Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho những mặt hàng xuất
khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất.Trợ giá xuất khẩu làm cho khối
lượng xuất tăng, làm tăng cung ngoại tệ, nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù giá cho
một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu, nội tệ giảm giá.
Trợ cấp chia làm 2 loại: trực tiếp bổ trợ tức là trực tiếp chi tiền cho nhà xuất khẩu
và gián tiếp bổ trợ tức là ưu đãi về tài chính về một số mặt hàng cho nhà xuất khẩu như
ưu đãi về thuế trong nước, thuế xuất khẩu…..
Đây được xem như là một thủ đoạn để lũng đoạn thị trường thế giới.
-Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM
Khi thị trường khan hiếm ngoại hối thì NHTW có thể tăng dự trữ ngoại hối đối
với các khoản ngoại tệ huy động được của các NHTM, chi phí huy động ngoại tệ tăng
cao, các NHTM phải hạ lãi suất huy động để tránh bị lỗ, khiến cho việc nắm giữ ngoại tệ
trở nên kém hấp dẫn so với việc nắm giữ nội tệ, tăng cung ngoại tệ trên thị trường.
-Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ
Lớp: CH21H
Page 17
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM
1997 ĐẾN NĂM 2012.
1.CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1997 ĐẾN 2012.
1.1.Bối cảnh kinh tế, chính trị.
1.1.1.Tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng GDP 8,5% vào năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh
hưởng của sự kiện khủng hoảng kinh tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8%
năm 1999. Tăng trưởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong
khi tình hình kinh tế thế giới đang trì trệ . Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
bình quân thời kỳ 2007-2011 đạt 6,8%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai
đoạn nay thấp hơn khá nhiều so với mức bình quân 7,38%/năm giai đoạn 2000-2005 và có
xu hướng giảm dần: từ tốc độ tăng trường GDP năm 2006 là 8,23%, đến năm 2007 đánh dấu
mốc Việt Nam gia nhập WTO tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt bậc đạt mốc 8,46% và sau đó
tụt giảm mạnh mẽ xuống còn 6,31% năm 2008 và xuống thấp nhất trong vòng 5 năm xuống
còn 5,32% vào năm 2009. Đến năm 2010 nền kinh tế có sự khởi sắc với tốc độ tăng trưởng
GDP 6,78%, nhưng lại tụt xuống mức 5,89 vào năm 2011.
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng GDP 1997-2011 (%)
Lớp: CH21H
Page 18
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Nguồn: TCTK.
Tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2012 của Việt Nam đạt mức 5,03%, theo công bố
tại cuộc họp báo chiều 24-12 của Tổng cục Thống kê. Mức này thấp hơn đáng kể so với
dự báo gần nhất là 5,2 - 5,3%. Cụ thể, GDP quý I tăng 4,64%, quý II tăng 4,80%, quý III
tăng 5,05% và quý IV tăng 5,44%. So với năm 2011, GDP năm nay giảm 0,86%.
1.1.2.Lạm phát.
Lịch sử kinh tế vĩ mô Việt Nam có 4 lần lạm phát lớn nhất: Mất cân đối tiền hàng
năm 1986-1991, khủng hoảng tài chính khu vực 1997-2000, lạm phát do tác động của
kinh tế thế giới năm 2008, và hiện tại. Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm
phát thấp nhất của Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%,
-0.6% và 0.8%. Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á
năm 1997 – 1998. Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai
đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007,
chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm. Năm 2008 là
một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI
đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã
lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng
22.97%. Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều
Lớp: CH21H
Page 19