1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHÔNG GIAN VĂN HÓA LÀNG VẠN PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 136 trang )


CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHÔNG GIAN VĂN HÓA

LÀNG VẠN PHÚC

1.1. Một số vấn đề về không gian văn hóa làng: Khái niệm, nội

dung và tiêu chí xác định

a) Khái niệm văn hóa: Khái niệm văn hóa vẫn là vấn đề mà các học

giả trên thế giới luôn bàn cãi. Tùy theo góc độ tiếp cận sẽ có những định

nghĩa khác nhau về văn hóa.

- Từ góc độ lịch sử: văn hóa được hiểu là sự trao truyền, kế thừa văn

hóa giữa các thế hệ.

- Từ góc độ giá trị chuẩn mực: văn hóa chính là lối sống, là giá trị của

một cộng đồng người.

- Từ góc độ nhân học: Văn hóa là sản phẩm hoạt động tinh thần của con

người, phân biệt người với động vật…

Văn hóa theo định nghĩa của GS. Viện Sĩ Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa

là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo

và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác của con

người với môi trường tự nhiên và xã hội”.

Xung quanh khái niệm văn hóa còn có khái niệm văn hóa vật thể và

văn hóa phi vật thể hay còn gọi là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Theo

sách Culturologia1 của G.V. Drach thì văn hóa tinh thần “thuộc về văn hóa

tinh thần có hệ tư tưởng, khoa học, đạo đức, giao tiếp tinh thần, sáng tạo

nghệ thuật và tôn giáo”[tr 124 - 125] và “văn hóa tinh thần là hoạt động

hướng đến sự phát triển tinh thần của con người và xã hội, sáng tạo tư tưởng,

tri thức, các giá trị tinh thần – các kiểu ý thức xã hội” [tr 180]. Văn hóa vật

chất, ông cũng cho rằng: “Công cụ lao động, phương tiện sản xuất, quần áo,

đời sống, nhà ở, phương tiện giao thông – tất cả những gì được gọi là phương

1



G.V. Drach, 2003, Văn hóa học, tr 120 - 124



10



tiện nhân tạo để cư trú của con người và là quá trình và kết quả của hoạt động

vật chất của con người”[tr 120].

Như vậy, văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa thể hiện đời sống

tinh thần của con người dưới hình thức vật chất, là kết quả của hoạt động sáng

tạo, biến những vật chất trong tự nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng.

Văn hóa phi vật thể là một dạng tồn tại của văn hóa dưới dạng vật thể có hình

khối tồn tại trong không gian và thời gian, mà nó thường tiềm ẩn trong trí

nhớ, hành vi ứng xử của con người. Thông qua các hoạt động sống của con

người trong sản xuất, lao động và giao tiếp…mà nó thể hiện ra, khiến con

người nhận biết được sự tồn tại của nó.

b) Khái niệm không gian văn hóa:

Không gian văn hóa là một khái niệm bao gồm một phạm vi trong đó

có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống với những mối

quan hệ về nguồn gốc lịch sử, những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế

hình thành nên những đặc trưng văn hóa chung thể hiện cả ở lĩnh vực văn hóa

đảm bảo đời sống, văn hóa tâm linh cũng như các loại hình thuộc văn hóa quy

phạm. Không gian văn hóa không đơn thuần là một lãnh thổ địa dư nhất định,

nó là một môi trường thống nhất, rộng lớn do con người sống trong không

gian ấy sáng tạo nên.

Về khái niệm không gian văn hóa, theo GS.TS Ngô Đức Thịnh thì có

thể hiểu không gian văn hóa theo hai ý nghĩa, cụ thể và trừu tượng.

Theo ý nghĩa cụ thể, “coi văn hóa như là một không gian địa lý xác

định, mà ở đó mỗi hiện tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa nảy sinh,

tồn tại, biến đổi và chúng liên kết với nhau như một hệ thống. Trong đời sống

xã hội của con người, ít khi một hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn tại và biến

đổi một cách độc lập, mà chúng thường liên kết với nhau thành những tổ hợp.

Với ý nghĩa ấy, văn hóa tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa vùng, văn hóa làng, văn



11



hóa nghề nghiệp, văn hóa đô thị, văn hóa nông thôn…đều là những dạng

khác nhau của tổ hợp văn hóa”.2

Theo ý nghĩa trừu tượng, có thể hiểu không gian văn hóa như một

“trường”, để chỉ một hiện tượng hay một tổ hợp các hiện tượng (một nền văn

hóa của tộc người, quốc gia hay khu vực) có khả năng tiếp nhận và lan tỏa

(ảnh hưởng), tạo cho nền văn hóa đó một không gian (trường) văn hóa rộng

hẹp khác nhau.

Để xác định không gian văn hóa của một làng, một địa phương, một

vùng cụ thể, ta phải xét các yếu tố đặc trưng liên quan. Đó là các yếu tố:

- Tính trội văn hóa: Dân gian Việt Nam luôn có cảm nhận về tính

trội trong tính cách con người, trong các sản vật thiên nhiên, trong nếp sống

văn hóa giữa làng này với làng kia, vùng kia tạo nên những đặc trưng văn hóa

riêng của một địa phương đó.3

- Về tên gọi “xứ”: là một vùng đất có những tương đồng nhất định

phương diện phong thổ, khí hậu, dân cư và sinh hoạt văn hóa4. Mỗi xứ có

những nét văn hóa tiêu biểu.

- Vùng văn hóa: là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt

hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ

nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã

hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong

vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong văn hóa vật chất và

văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với vùng văn hóa khác.5

2



Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản

Trẻ, Tr 6

3

Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản

Trẻ, Tr 46

4

Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản

Trẻ, Tr 49

5

Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản

Trẻ, Tr 10.



12



c) Khái niệm văn hóa làng:

Về phương diện hành chính, xã là thiết chế có tính chất pháp lý. Còn

đối với người dân, người nông dân bình thường của hàng bao thế kỷ, thì

người ta chỉ biết có làng. Tập tục làng, truyền thống làng là chất keo đặc thù

gắn kết mọi thế hệ thành viên của làng.

Làng người Việt có nội hàm phong phú, đa dạng, toàn diện trên các

lĩnh vực: văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, nghệ thuật kiến trúc, lịch

sử, khảo cổ, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nghi thức, lễ hội…

Tính chất khoa học của khái niệm văn hóa làng thể hiện ở chổ, dù phân

loại theo kiểu nào người ta cũng khó có thể đồng nhất phong tục, tập quán, tín

ngưỡng, tâm lý, lối sống, phương thức hoạt động và ứng xử .... của cộng đồng

làng với các cộng đồng văn hóa khác, kể cả những cộng đồng đặc biệt gần gũi

như xã, hoặc các cộng đồng theo đơn vị hành chính, xã hội hoặc tôn giáo.

Vậy văn hóa làng đã hiện ra như là những khuôn thước ứng xử nằm ở

tầng sâu trong đời sống cộng đồng; như là hệ thống các giá trị đặc thù qui

định và ngầm điều khiển các quan hệ cộng đồng; như là sự tổng hợp của

những kinh nghiệm sống hình thành qua lịch sử của các cộng đồng.

Làng, có thể nói là cộng đồng văn hóa rất riêng, nhưng cũng rất chung

trong khuôn khổ của lề thói theo phương thức sản xuất châu Á. Cái riêng của

từng làng thì thể hiện tương đối rõ ở từng tập tục riêng, lễ hội riêng, cách thức

ứng xử riêng. Nhưng từng cái riêng ấy lại đều có một "mẫu số chung" làm

nên khuôn thước văn hóa làng.

1.2. Yếu tố địa lý, sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn cấu

thành không gian văn hóa làng Vạn Phúc

Vạn Phúc có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lưu thương mại, phát

triển kinh tế khi nằm tiếp giáp với quốc lộ 6 - cửa ngõ trực tiếp nối quận Hà

Đông với thủ đô Hà Nội và có tuyến đường tỉnh ĐT 430 (TL 72 cũ) chạy qua.



13



Với vị trí thuận lợi như vậy, Vạn Phúc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát

triển ngành thủ công truyền thống.

Về đặc điểm địa hình, Vạn Phúc nằm ở trung tâm của đồng bằng Bắc

Bộ nên địa hình ở đây mang đặc điểm của địa hình vùng đồng bằng: địa hình

tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam. Địa

hình của làng được chia thành hai vùng: Vùng cao gồm các khu dân cư và các

cánh đồng Mân, Sen, Bồ Các, Tháp I, Tháp II và Dộc Chuôm. Vùng thấp gồm

cánh đồng Bún và cánh đồng Bồ nằm ở phía Tây Nam của làng.

Về thủy văn, làng giáp sông Nhuệ và sông đào La Khê nên việc tưới

nước cho đồng ruộng do hai con sông này cung cấp. Sông ngòi là đường giao

thông quan trọng để Vạn Phúc luân chuyển hàng hóa, phát triển nghề dệt cổ

truyền. Làng nằm bên bờ sông Nhuệ do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chế độ

thủy văn của dòng sông này.

Bảng 1.1: Mực nước lớn nhất trên sông Nhuệ (qua Hà Đông)

Năm

1978

Mực nước sông Nhuệ qua



1983



1984



1985



1994



5,40



5,37



5,77



5,60



5,79



Hà Đông lớn nhất (m)

Nguồn: Quy hoạch thủy lợi tỉnh Hà Tây, tháng 12-2006, Thư viện Hà Tây

Về khí hậu làng mang sắc thái của kiểu khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là

khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh,

mưa ít. Nhưng nhìn chung khí hậu ở đây ôn hòa hơn các địa phương khác, rất

thuận lợi với điều kiện sống của con người. Nét đặc trưng của kiểu khí hậu

nhiệt đới là có lượng bức xạ mặt trời dồi dào quanh năm và có nền nhiệt độ

cao, thuận lợi cho việc phát triển các ngành kinh tế.

Ta có bảng số liệu nhiệt độ, không khí và độ ẩm tương đối của một số

vùng:

14



Bảng 1.2: Nhiệt độ không khí và độ ẩm tương đối

THÁNG TRUNG

TRẠM



CHỈ TIÊU



BÌNH

1



Sơn Tây



Ba Vì



Vạn Phúc



Hà Nội



Nhiệt độ (0C)



2



15,9 17,1



3



4



5



6



7



20,1



23,7



27,1 28,6



28,8



8



9



10



11



12



28,2 27,1



21,6



21,1



17,6



23,1



NĂM



Độ ẩm (%)



83



85,0



87,0



87,0



84,0 83,0



83,0



85,0 83,0



83,0



81,0



81,0



83,8



Nhiệt độ (0C)



14,5



17,1



19,9



23,6



27,0 28,6



28,6



28,0 26,9



26,9



20,6



17,6



22,9



Độ ẩm (%)



84,0



85,0



86,0



86,0



83,0 81,0



82,0



85,0 84,0



82,0



80,0



80,0



83,2



Nhiệt độ (0C)



15,7



16,2



19,8



23,5



26,8 28,5



29,1



28,3 27,0 24,4



20,7



17,4



23,1



Độ ẩm (%)



85,0



85,0



88,0



89,0



86,0 84,0



82,0



86,0 85,0



84,0



81,0



80,8



84,6



Nhiệt độ (0C)



16,4



17,0



20,2



23,7



27,3 28,8



28,9



28,2 27,2



24,6



21,4



18,2



23,5



Độ ẩm (%)



83,0



85,0



87,0



87,0



84,0 84,0



84,0



86,0 83,0



82,0



81,0



81,0



83,8



Nguồn: Tổng cục khí tượng thủy văn



15



Nhìn vào bảng ta thấy lượng mưa phân bố không đồng đều theo thời

gian và không gian. Do ảnh hưởng của chế độ gió mùa nên khí hậu làng cũng

giống như khí hậu của các làng khác thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ là có sự

kế tiếp nhau của hai mùa có đặc tính khác nhau rõ rệt là mùa hè và mùa đông.

Về diện tích và dân số: Trước năm 1945: diện tích của làng Vạn Phúc

là 124,0 ha, trong đó diện tích đất ở: 18,5 ha; đất trồng trọt: 10,55 ha. Dân số

của Vạn Phúc: có 678 hộ và 3.000 nhân khẩu. Năm 2011: diện tích của làng là

143,97 ha, trong đó đất ở là 50,05 ha; đất nông nghiệp là 20,05 ha. Dân số

Vạn Phúc là 13.595 nhân khẩu, 3.209 hộ được chia thành 12 tổ dân phố. Như

vậy, Vạn Phúc là một phường đất chật người đông, đây là kết quả tất yếu của

quá trình đô thị hóa.

Năm 2004 có sự điều chỉnh và mở rộng ranh giới của phường Vạn

Phúc (ngày 1/11/2003), do đó sự tăng trưởng đột biến: năm 2003 dân số Vạn

Phúc là 5.680 người, đến năm 2004 do có sự điều chỉnh và mở rộng ranh giới,

dân số tăng thành 9.429 người. Sự mở rộng không gian sống dẫn đến mở rộng

về không gian văn hóa, không gian văn hóa Vạn Phúc không chỉ còn bó hẹp

trong làng Vạn Phúc xưa mà đã thêm những yếu tố văn hóa mới từ các khu

tập thể liên quan đến lối sống của cán bộ và công nhân viên chức của nhà máy

Len Nhuộm Hà Đông, nhà máy Cánh Kiến, nhà máy dệt Hà Đông, nhà máy

thuốc lá Thăng Long.



16



Bảng 1.3: Hiện trạng dân số Vạn Phúc

Stt



Chỉ tiêu



1

2

2.1

2.2

3

3.1

3.2

4

4.1

4.2

4.3

4.4

4.5

4.6



Dân số trung bình

Mức gia tăng

Tăng tự nhiên

Tăng cơ học

Tỷ lệ gia tăng

Tỷ lệ gia tăng tự nhiên

Tỷ lệ gia tăng cơ học

Cơ cấu dân số

Số người dưới 15 tuổi

Dân số trên tuổi lao động

Dân số trong độ tuổi lao động

Tổng số cặp kết hôn

Tổng số hộ

Quy mô hộ bình quân



5



Mật độ dân số



Năm

Đv

tính 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2009

2010

2011

Người 5.579 5.613 5.680 9.429 9.574 9.750 9.890 10.168 10.389 10.564

Người 135

64

163

139

145

176

140

278

221

175

Người 93

63

131

103

131

130

135

201

195

157

Người 42

1

32

36

14

46

5

77

26

18

%

2,42 1,14 2,87 1,47 1,51 1,81 1,42

2,73

2,12

1,65

%

1,67 1,12 2,31 1,09 1,37 1,33 1,37

1,97

1,87

1,48

%

0,75 0,02 0,56 0,38 0,15 0,47 0,05

0,75

0,25

0,17

Người

Người

Người

cặp

hộ

Người

người

/ km2



3.212 3.125 3.045 4.789

464

601

727 1145

1.903 1.905 1.908 3.495

70

70

79

112

1.560 1.600 2.275 2.417

3,58 3,52 2,50 3,90



4.756

1330

3.488

132

2.560

3,74



4.900

1400

3.590

100

2.620

3,77



5.025

1460

3683

115

2680

3,82



5.150

1505

3704

123

2705

3,85



5.290

1560

3714

118

2736

3,89



3.874 3.910 3.944 6.548 6.649 6.771 6.868



6.967



7.102



7.189



Nguồn: UBND phường Vạn Phúc

17



4.843

1350

3.557

130

2.600

3,75



Như vậy, Vạn Phúc có nguồn nhân lực khá dồi dào là điều kiện thuận

lợi để phát triển kinh tế xã hội, song nó cũng là một sức ép đáng kể lên địa

phương trong việc bố trí việc làm đáp ứng nhu cầu việc làm trong tương lai.

Tính cách con người: Là một xã ở gần tỉnh lỵ lại giao lưu trao đổi hàng

hóa với nhiều nơi, nhân dân Vạn Phúc có điều kiện tiếp thu và xây dựng cho

mình những nét hay nét đẹp trong cốt cách con người. Mặt khác, địa phương

có lịch sử lập cư gồm những người khảng khái không chịu khuất phục cường

quyền của giai cấp thống trị đã từ nhiều phương tới. Họ kéo đến đây dựng

thôn, lập ấp quần tụ, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Do vậy người Vạn Phúc có

đặc tính nổi bật là “đoàn kết, cương trực và tự trọng”.6

1.3 Điều kiện lịch sử

Làng Vạn Phúc xưa có tên là Vạn Bảo, vốn là trang Vạn Bảo, xã

Thượng Thanh Oai, trấn Sơn Nam. Hiện trên tấm bia đá Văn chỉ của làng

được xây dựng từ thời Tây Sơn, cũng ghi thôn Vạn Bảo, xã Thượng Thanh

Oai. Sang thời Nguyễn, xã Thượng Thanh Oai có bốn thôn là: Cầu Đơ, Văn

Quán, Kiều Trì, Vạn Bảo, riêng làng Vạn Bảo nằm biệt lập ở bên kia sông

Cầu Am nên khi chia lại địa giới hành chính, làng được đổi sang thuộc tổng

Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ XX,

do kiêng húy tên vua Thành Thái là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc.

Sau cách mạng tháng Tám 1945, Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà

Tây. Năm 2008, do sự sát nhập tỉnh Hà Tây vào thành phố Hà Nội, nên Vạn

Phúc trở thành phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Theo các cụ trong làng kể lại, thì từ xa xưa, người Mỗ Lao ở bên kia

sông Nhuệ đã chuyển sang bên này sông lập trại sinh sống. Khi mới định cư,

người Vạn Phúc chỉ sống bằng nghề trồng cây lương thực và chăn nuôi. Hoàn

6



Ban chấp hành Đảng bộ xã Vạn Phúc (1986), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ

và nhân dân Vạn Phúc, tập 1, tr 18.



18



cảnh kinh tế tự cấp, tự túc đã đưa người dân làng Vạn Phúc đến với nghề

trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Trong quá trình phát triển kinh tế, bên

cạnh nghề nông, nghề dệt dần dần trở thành nguồn sống chính của làng. Theo

nghiên cứu của GS Nguyễn Quang Ngọc, sang thế kỉ XVI và nhất là vào các

thế kỷ XVII, XVIII, XIX bên cạnh các làng thủ công nghiệp chuyên nghiệp

đã có từ trước, xuất hiện thêm ngày một nhiều các làng, phường thủ công

nghiệp trong đó có Vạn Phúc.7

Từ lúc mới hình thành, làng Vạn Phúc là một làng nông nghiệp kết hợp

với nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, văn hóa làng có đặc trưng là văn hóa

nông nghiệp. Thời kỳ phát đạt của nghề dệt là những năm 1930 – 1940, sau

khi sản phẩm của làng mang dự hội chợ Mác -xây được chính phủ Pháp tặng

huy chương bội tinh và một số người được tặng chức danh Bá hộ, nghề dệt

thịnh đạt, buôn bán phát triển, văn hóa làng là sự kết hợp văn hóa nông

nghiệp với văn hóa thương mại.

Tính chất của không gian văn hóa làng Vạn Phúc: Không gian văn hóa

làng mang đậm yếu tố của văn hóa làng nghề. Không gian văn hóa làng Vạn

Phúc mang tính chất mở, luôn tiếp thu, học hỏi những yếu tố, nền văn hóa tiên

tiến ở trong và ngoài nước một cách có sàng lọc. Không gian văn hóa làng

Vạn Phúc so với không gian văn hóa của những làng nghề lân cận như La Cả,

La Phù…mang những đặc trưng chung của làng nghề Bắc Bộ, đó là: 1. Các

làng nghề tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp; 2. Công nghệ

kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề truyền thống thường là thô sơ,

sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu, ngày nay do việc áp dụng công nghệ kỹ

thuật vào sản xuất, máy móc đã thay thế bàn tay thủ công của con người. 3.

Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực hiện theo phương thức truyền

7



Nguyễn Quang Ngọc: Một số vấn đề làng xã Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,

2009, tr 112.



19



nghề. 4. Hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu ở qui mô hộ gia đình, một số đã

có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.

Quá trình biến đổi không gian văn hóa làng diễn ra trên các mặt: không

gian sống, kinh tế, văn hóa. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi không gian văn

hóa làng Vạn Phúc là do quá trình đô thị hóa mở rộng thủ đô Hà Nội, quá

trình đô thị hóa của chính làng Vạn Phúc cũng như của quận Hà Đông; quá

trình sát nhập 5 khối dân cư thuộc phường Yết Kiêu cũ vào phường Vạn

Phúc; sự giao lưu kinh tế, văn hóa của Vạn Phúc với các tỉnh, thành phố khác,

với khách du lịch nước ngoài…song song với nó là sự phát triển của truyền

hình, internet, truyền thông mang tính đại chúng.

Hiện ở đình làng Vạn Phúc còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong, gồm

có đời Lê 3 đạo, đời Tây Sơn 2 đạo, đời Nguyễn 6 đạo. Trong điều kiện ít ỏi

về sự phát triển của làng Vạn Phúc trong thời kỳ phong kiến thì 11 đạo sắc

phong này cũng đưa lại cho chúng ta một số hiểu biết về sự phát triển và điều

kiện lịch sử hình thành nên không gian văn hóa làng. Đạo sắc phong năm Bảo

Hưng thứ nhất (1801) đời Tây Sơn ghi duệ hiệu Đức thánh với hơn hai mươi

mỹ tự, mà theo quy định xưa thì mỗi đợt gia phong thường chỉ là hai đến ba

mỹ tự. Đến triều Nguyễn, mặc dù đã có tiền lệ ban cấp sắc phong từ đời Lê,

Tây Sơn nhưng các vua đầu triều Nguyễn như Gia Long (1802 - 1820), Minh

Mạng (1821 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847) đều không ban sắc phong cho

thành hoàng làng Vạn Phúc. Mãi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853), đình làng

Vạn Phúc mới tiếp tục nhận được sắc phong. Theo quy chế ban cấp sắc phong

thời xưa, một địa phương không nhận được sắc phong có hai lí do. Một là vị

thần mà dân làng tôn thờ không phải là chính thần mà là tà thần, dâm thần.

Hai là dân làng không chịu tuân theo giáo hóa của triều đình. Trường hợp

làng Vạn Phúc thuộc vào lí do thứ hai. Vì thời Tây Sơn, dân làng Vạn Phúc ra



20



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

×