Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 136 trang )
làng lúc này theo mô hình cụm phân tán. Ngày nay Vạn Phúc có 12 tổ dân
phố, trên cơ sở của 7 xóm cũ của Vạn Phúc và 5 khối mới sát nhập.
Các tổ dân phố được phân bố như sau:
- Lấy trục đường Vạn Phúc (trước là đường 430) làm trục phân cách,
thì có 4 tổ bên kia đường: tổ 6, tổ 7, tổ 8, tổ 10, đây là các tổ thuộc phường
Yết Kiêu cũ, nay nhập vào phường Vạn Phúc. Dân cư ở đây chủ yếu là cán
bộ, công nhân viên chức của nhà máy Len Nhuộm Hà Đông, nhà máy Cánh
Kiến, nhà máy dệt Hà Đông, nhà máy thuốc lá Thăng Long sinh sống.
- Bên này đường có 8 tổ: tổ 9 và 7 xóm (cũ) của Vạn Phúc.
Về cấu trúc ngõ, xóm: được phân thành hai trục
- Trục lấy từ cầu Am đến dọc bờ sông được gọi là tuyến phố cầu Am.
Địa giới tính từ cầu Am đến cồng làng cạnh chùa Vạn Phúc có các tổ: tổ 9; tổ
Đoàn Kết; tổ Quyết Tiến; tổ Độc Lập; tổ Chiến Thắng.
- Trục từ cổng chùa Vạn Phúc đi đến Miếu gọi là tuyến lụa Vạn Phúc.
Địa giới tính từ tuyền lụa Vạn Phúc ra đường Lê Văn Lương kéo dài có 3 tổ:
Bạch Đằng, Hạnh Phúc, Hồng Phong.
Các tổ dân phố nằm liền kề nhau, phân cách bởi đường đi trong làng.
Các tổ dân phố, các ngõ dù chỉ là những phân thể của làng về mặt cư trú, lại
có cuộc sống riêng của chúng, cuộc sống của xóm, cuộc sống của ngõ: “Bán
anh em xa mua láng giềng gần”, những ứng xử tập thể ấy mà tiếng nói dân
gian đã mô thức hóa thành khẩu ngữ, quy chiếu vào thành quan hệ giữa người
với người trong phạm vi xóm và ngõ, hơn là trong phạm vi cả làng.
Sự thay đổi về tên gọi và không gian sống dẫn đến sự thay đổi về văn
hóa, về lối sống của làng Vạn Phúc. Các tên gọi xưa: Xóm Trong, xóm Ngoài,
xóm Giữa, xóm Quán, xóm Lẻ, thể hiện vị trí của các xóm trong cấu trúc
làng, đọc tên các xóm ta thấy sự bình dị, đơn giản trong nghĩa từ. Các tên gọi
mới: Hạnh Phúc, Bạch Đằng, Quyết Tiến, Chiến Thắng…nghĩa của từ đã
29
phức tạp hơn, con người hướng tới cái ý nghĩa, cái đẹp trong địa danh cho
xóm mình. Không chỉ là cách xưng gọi, tên các xóm là ước vọng, mong muốn
hạnh phúc và sự quyết tâm chiến thắng trong cuộc sống. Không gian văn hóa
làng Vạn Phúc hòa trộn vào không gian văn hóa tập thể, hình thành nên không
gian văn hóa mới: không gian văn hóa phường Vạn Phúc. Con người Vạn
Phúc cũng vậy, cư dân nông dân, thợ thủ công đã kết hợp với công nhân tạo
thành sự kết hợp văn hóa của nông thôn, văn hóa thủ công nghiệp và văn hóa
công nghiệp ở một mức độ nào đó. Bức tranh không văn gian văn hóa phường
Vạn Phúc đã muôn màu muôn sắc là vì thế.
2.1.1.2 Bố trí nơi sản xuất và bán hàng
* Bố trí nơi sản xuất
Có hai hình thức sản xuất tồn tại ở Vạn Phúc đó là: sản xuất tập trung
và hình thức sản xuất tại các hộ gia đình.
- Sản xuất tập trung: Sau năm 1945, nghề dệt dường như chững lại và
trong một thời gian ngắn vẫn tồn tại dưới hình thức sản xuất tư nhân, cá lẻ.
Năm 1955, bảy hợp tác xã nhỏ vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề dệt.
Tình hình này đã cản trở bước phát triển mới của nghề dệt. Trước nhu cầu đó,
năm 1959, bảy hợp tác xã này tách thành hai hợp tác xã lớn: Hợp tác xã nông
nghiệp và Hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc. Đây là bước chuyển lớn lao trong sự
phát triển của nghề dệt. Từ đó trở đi nghề dệt được chú ý đầu tư và có điều
kiện phát triển. Đến cuối năm 1989, Hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc chuyển lên
thành Xí nghiệp dệt lụa Vạn Phúc. Xí nghiệp có 5 phân xưởng sản xuất tơ lụa
và 2 phân xưởng sản xuất đay. Hàng hóa sản xuất chủ yếu gia công cho nhà
nước. Với số lượng 1.200 công nhân và 115 khung dệt chạy điện, tổng sản
lượng sản xuất ra trong những năm 1980 – 1987 là 300.000 – 350.000 mét
vải/năm bao gồm hàng chục mặt hàng xuất khẩu: lụa trơn, lụa hoa, sa tanh,
băng, quế, đũi, tít so…
30
Hiện nay, cũng tồn tại một địa điểm sản xuất tập trung đó là cơ sở sản
xuất của hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc, nằm ở khối Bạch Đẳng. Cơ sở này có
diện tích khoảng 7000 m2. Ngoài việc dệt, cơ sở này chủ yếu phát triển các
hình thức dịch vụ phục vụ cho nghề dệt của các hộ trong làng như: chuội,
nhuộm, se tơ, cơ khí, đồ mộc…
- Sản xuất tại các hộ gia đình: Cả làng Vạn Phúc có khoảng trên 700
hộ, được phân bố rải rác, chủ yếu ở 7 tổ dân phố cũ trong làng. Mỗi hộ ít nhất
là một máy, nhiều đến 20 máy. Thu nhập tùy thuộc vào số máy của gia đình.
Các hộ có nhiều máy dệt như: gia đình ông Thiện (tổ Độc Lập), gia
đình ông Đặng Văn Cường (tổ Chiến Thắng), gia đình nghệ nhân Triệu Văn
Mão (tổ Quyết Tiến) có trên 10 máy dệt và có cửa hàng kinh doanh trực tiếp
bán sản phẩm. Những gia đình có 5 máy còn nhiều: nhà ông Nguyễn Hữu
Chỉnh (tổ Chiến Thắng – nguyên Chủ tịch hiệp hội làng nghề Vạn Phúc); gia
đình anh Ca (tổ Hạnh Phúc); gia đình anh Hà (tổ Hồng Phong)…
Thành phần tham gia lao động: ngoài các thành viên trong các hộ gia
đình xã viên dệt lụa, các hộ nào nhiều máy còn thuê thêm lao động từ các tỉnh
khác đến: Hà Nam, Nam Định, Thanh Hóa…Tùy thuộc từng thời điểm mà họ
thuê lao động, trung bình thuê 300 – 500 người/năm. Thu nhập lao động bình
quân 1,5 triệu đồng/tháng.
* Bố trí nơi bán hàng
Hàng dệt của Vạn Phúc một phần để may mặc, còn phần lớn đem bán
trao đổi. Từ thời xa xưa, tơ lụa được đem bán tại chợ Đình. Trao đổi ngày
càng phát triển, tơ lụa được đem bán tại chợ Đơ (Hà Đông) – chợ mang tính
chất khu vực. Đến thời Pháp thuộc, những yếu tố thương mại tư bản đã thâm
nhập vào từng bước phá vỡ những phạm vi trao đổi hẹp có tính chất khu vực.
Từ đó hàng hóa được bán tại Hàng Ngang, Hàng Đào (Hà Nội).
31
Bảng 2.1: Lịch phiên chợ của người dân nơi đây như sau:
Phiên chợ
Ngày
Tên gọi của nhân Sản phẩm
họp
dân địa phương
Hàng Ngang
Phiên hang
5 – 10
- phiên chợ
-các sản phẩm (trừ tơ lụa)
1-6
Hàng Đào
Tơ, lụa
- phiên hàng
- tơ, lụa
Phiên tiền
Lương thực, thực phẩm
1- 6
Chợ Đơ
Chợ Đình (Vạn Phúc)
2–7
Nguồn: Ủy ban nhân dân phường Vạn Phúc
Chu kì thời gian sản xuất và trao đổi được khép kín, trong 5 ngày. Hết
5 ngày, công việc bắt đầu lặp lại từ đầu: dệt hàng – đi bán, mua nguyên liệu
(tơ tằm) – mua hàng tiêu dùng.
Bên cạnh hình thức đi bán theo từng gia đình là phổ biến còn có hình
thức một vài gia đình liên kết với nhau cùng đi bán hàng. Hình thức này xuất
hiện vào những năm 30 của thế kỉ XX do những yếu tố hàng hóa tư bản phát
triển mạnh tạo ra một số tiểu chủ ở làng Vạn Phúc có nhiều vốn, khối lượng
hàng dệt khá lớn (từ 1500 – 200 mét trong mỗi lần đi chợ), họ cùng nhau đi
bán hàng, bước đầu đặt cơ sở cho sự ra đời của “cửa hiệu Phúc Hợp” và công
ty Long Vân. Mười hộ gia đình ở làng Vạn Phúc có nhiều khung dệt (5 – 7
khung) liên kết với nhau đi bán hàng ở Hà Nội. Với số lượng hàng nhiều, mặt
hàng phong phú đa dạng: vân, băng, quế, lụa…nên hàng của họ dễ bán và đắt
hơn những người đi bán lẻ. Lúc này, họ không ra Hà Nội nữa, khách hàng ở
khắp nơi: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn…đã về tận Vạn Phúc để mua. Để tiện
việc mua bán họ mở ở Vạn Phúc một cửa hiệu ngay tại làng có tên là cửa hiệu
Phúc Hợp. Đã có những khách hàng ở tận Sài Gòn yêu cầu “Phúc Hợp” vận
32
chuyển hàng vào. Trên cơ sở đó, một trung tâm giao dịch mới có tên công ty
Long Vân (chi nhánh của cửa hiệu Phúc Hợp) ra đời tại Sài Gòn.
Khi Nhật đảo chính Pháp, toàn bộ nhân viên của Long Vân rút ra Bắc.
Trong tình hình đó, cửa hiệu Phúc Hợp được chuyển từ Vạn Phúc ra trung
tâm thị xã Hà Đông, số nhà 88 – 90 Lê Lợi ngày nay. Tại đây vẫn kinh doanh
các mặt hàng tơ lụa. Đến tháng 8- 1945, cùng với sự ra đời của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa cửa hàng Phúc Hợp chấm dứt các hoạt động của mình.
Hiện nay, có khoảng 150 cửa hàng bán trực tiếp hàng tại làng Vạn
Phúc. Các cửa hàng được phân bố ở tuyến đường cầu Am chiếm 1/3; và tuyến
phố lụa Vạn Phúc chiếm 2/3 số gian hàng. Các cửa hàng được đầu tư xây
dựng khá khang trang và đẹp mắt, thu hút rất nhiều khách từ các nơi đến mua,
trong đó có cả khách nước ngoài, hàng năm có khoảng 15.000 – 20.000 khách
nước ngoài đến thăm quan và mua sản phẩm. Doanh thu của các hộ ngành dệt
lụa trong làng đạt 50 tỷ/năm; sản lượng dệt mỗi năm được 2 triệu mét lụa.
Chợ cũng là nơi lưu giữ tổng thể những nét văn hóa cũng như tục lệ của
người dân Việt. Bên cạnh việc trao đổi mua bán thông thường, chợ xưa còn là
nơi giao lưu tình cảm anh em, bạn bè, là nơi trao đổi thông tin về tình hình gia
đình, chòm xóm. Vì vậy, chợ làng Vạn Phúc chính là một nét văn hóa kinh
doanh truyền thống - văn hóa kẻ chợ, mang trong mình biểu trưng của sự hội
tụ và chắt lọc vừa cũ xưa, dung dị và hồn hậu, vừa tươi mới bởi sự sôi động,
ồn ào. Sự giao tiếp giữa người mua và người bán, nghệ thuật chào mời khách
mua hàng, cách rao hàng để thu hút sự chú ý... tất cả đều là những biểu hiện
sinh động của văn hóa kinh doanh.
Trong hoạt động sản xuất, nhiều làng nghề thủ công của Việt Nam cũng
có những quy định nghiêm ngặt về đạo đức nghề nghiệp, về chữ tín đối với
khách. Một ví dụ tiêu biểu có thể kể đến là những người thợ chạm bạc của
Đồng Xâm, Thái Bình. Từ xưa đến nay, thợ bạc Đồng Xâm luôn lấy chữ tín,
33
chữ tài làm trọng. Họ giữ phẩm chất, lương tâm người thợ và tinh hoa kỹ
thuật nghề nghiệp của quê hương. Hương ước của làng quy định chặt chẽ
rằng, những người nào làm đồ giả để lừa người khác, gây bất tín thì sẽ bị phạt
thật nặng, bị đánh đòn trước nhà thờ Tổ hoặc bị xóa tên trong phường.
Trên thực tế, những nét văn hóa truyền thống của dân tộc, như trọng chữ
tín, yêu chuộng sự chân thật, thái độ hòa nhã, sự mềm dẻo, linh hoạt…đã
được người Việt xưa vận dụng trong các hoạt động kinh doanh. Thêm nữa,
thái độ kỳ thị nghề kinh doanh, sự bài xích những kẻ lừa đảo, làm ăn gian
dối…cũng là biểu hiện của văn hóa kinh doanh. Không nằm ngoài quy luật
ấy, nghề kinh doanh lụa Vạn Phúc cũng kế thừa những nét văn hóa kinh
doanh của dân tộc, tạo nên văn hóa buôn bán của địa phương là trọng chữ tín,
chân thật, thái độ hòa nhã, cởi mở với khách hàng, mềm dẻo, linh hoạt trong
giao tiếp, không co kéo khách hàng của nhau, một số mặt hàng niêm yết giá.
Trước nền kinh tế thị trường, yếu tố phường hội không còn ảnh hưởng
đến nghề dệt như trước nữa, mà trong sản xuất cũng như buôn bán, các gia
đình chủ động trong sản xuất và kinh doanh các sản phẩm dệt lụa.6)
2.1.2 Tổ chức không gian sinh hoạt đời sống tâm linh: Truyền thống và
hiện đại
2.1.2.1. Đình làng trong không gian văn hóa làng Vạn Phúc xưa và
đình làng trong không gian văn hóa phường Vạn Phúc nay
Đình Vạn Phúc là một ngôi đình khá đẹp, kiến trúc tiêu biểu cho kiến
trúc đình thời Nguyễn. Căn cứ vào cuốn thần phả và các đạo sắc phong hiện
còn lưu giữ được tại đình, thì vị thần được thờ ở đình Vạn Phúc là Ả Lã Đê –
dòng dõi vua Hùng – người đã có công dạy nghề dệt cho dân làng Vạn Phúc.
34
Ảnh chụp 3: Phương đình làng Vạn Phúc
* Khảo tả di tích:
- Cấu trúc đình: Đình Vạn Phúc tọa lạc trên một địa thế cao giữa làng
nhìn về hướng Tây, được xây dựng theo hình chữ “quốc” nên rất bề thế. Đình
Vạn Phúc không giống như những ngôi đình truyền thống khác ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Khi nói đến ngôi đình làng người ta thường liên tưởng đến một
ngôi đình lớn với nhiều cột gỗ lớn, cấu trúc đình theo hình chữ “nhất” hoặc
chữ “đinh”, mặt đình chạy dài từ 3 – 5 gian với 4 mái cong. Nhưng ở đây đình
Vạn Phúc có một bố cục tương đối đặc biệt. Ngôi đình Vạn Phúc chạy dọc
theo chiều sâu, từ ngoài cổng vào ta thấy trước mặt là hồ nước hình chữ nhật
chia lối vào đình thành hai cánh cung.
Kiến trúc và điêu khắc: Hạng mục kiến trúc đầu tiên là Ao đình. Tiếp
đến là bức bình phong được xây theo kiểu cuốn thư. Kế theo là Nghi môn,
Nghi môn đình Vạn Phúc được xây dựng theo hình thức trụ biểu với 3 lối đi.
Tiếp nữa là mặt sập hổ phù, xuống dưới là ô lồng đèn, bên trong có đắp nổi
35
các hình tứ linh: Long, ly, quy, phượng. Thân trụ biểu được đắp nổi đôi câu
đối bằng chữ Hán ca ngợi công trạng của thành hoàng làng và cảnh đẹp của
đình. Từ cổng vào một khoảng sân rộng lát gạch bát cổ, ta gặp Phương đình.
Phương đình Vạn Phúc là không gian rộng nhất và là “hồn” của ngôi đình.
Vào bên trong các vì nóc của bộ vì “có kết cấu kiểu chồng rường, từ
thân 4 cột cái là các xà nách ăn mộng vào và nối ra đầu các cột quân, trên
lưng xà nách là các con rường chồng lên nhau, một đầu ăn mộng vào thân cột
cái, đầu kia vươn ra đỡ các hoành mái hạ”11. Đặc biệt toàn bộ hệ thống kết
cấu gỗ tòa phương đình được sơn son thếp vàng và dát bạc.
Nối giữa Phương đình và Hậu cung là Trung cung. Trung cung với ý
nghĩa tạo không gian kín cho ngôi đình để tiện việc hành lễ, chiêm bái, tránh
được mưa nắng. Trung cung đình Vạn Phúc là 3 gian nhà ngang có chiều dài
bằng tòa Hậu cung, với 4 bộ vì uốn cong theo kiểu hình mai rùa, mang sắc
thái kiến trúc của cung đình Huế.
Tiếp giáp phía sau Trung cung là tòa Hậu cung. Hậu cung đình Vạn
Phúc là chốn thâm nghiêm, là nơi có không gian lớn thứ hai sau Phương đình.
Hậu cung đình Vạn Phúc là 3 gian nhà dọc, được làm theo kiểu tiền đao, hậu
đốc, hai tầng 4 mái lợp ngói di. Vào bên trong Hậu cung đình được chia thành
2 phần gồm phần hiên và phần cung cấm thờ thánh. Phần hiên Hậu cung đình
được làm khá rộng, có bày một hương án gỗ chạm cùng một số đồ thờ như bát
hương gốm Thổ Hà, cây thiên mệnh, hoành phi…
Chạy dọc suốt từ Phương đình đến Hậu cung ở về hai phía là hai dãy tả
hữu mạc, mỗi bên 10 gian, 3 gian phía trong cùng còn giữ được nguyên vẹn
kết cấu của đình cũ thời Lê, 7 gian phía ngoài được tu sửa ở thời Nguyễn – là
nơi để 14 giáp hội họp ngày làng có tiệc. Hai bên của tả hữu mạc, đăng đối
nhau là các câu đối thể hiện tài văn chương của 14 giáp mong cầu dân khang
11
Sở Văn hóa thông tin Hà Tây, 2005, Lý lịch di tích đình Vạn Phúc, tr 7.
36
vật thịnh. Bên tả: Phú hữu lộc tài lợi thái hợp. Bên hữu: An khang thọ khánh
mỹ thiện hòa.
Trong đình có rất nhiều các di vật quý như: khám thờ, bộ kim khí đồng,
lọ lục bình, quạt, bát hương…
* Sự tích về thần có thể tóm tắt như sau:
“Vào thời nước ta còn thuộc nhà Đường, ở Bắc quốc tại châu Tự Long,
đạo Tuyên Quang có một gia đình dòng dõi vua Hùng. Ông họ Hùng, tên
Thụy, là người tài đức kiêm toàn. Bà họ Phạm, tên Khương là trang thụ đức
nổi danh, nhưng mãi chưa có con. Một hôm ông bà nói với nhau rằng: “Nhà ta
tích thiện đã 2,3 đời chưa từng làm một tý việc xấu, ta nghĩ, thử một phen
khẩn cầu thần linh, hoặc giả may ra có điềm lành én liệng thì cũng thỏa chí
bình sinh”. Nói xong, ông bà liền lập đàn cầu xin thiên địa thần linh sớm ứng
điềm lành. Đêm đó hai ông bà ngủ thiếp đi, bỗng thấy hào quang rực rỡ, xuất
hiện một vị thần tay cầm chiếc kim thoa đưa cho ông.
Ông tỉnh dậy biết là giấc mộng “Bồng son”. Một năm sau, bà sinh một
người con gái mặt hoa da phấn, thông minh tài trí. Ông bà vô cùng yêu quý,
đặt tên cho là Ả Lã. Khi lớn lên, sắc đẹp của nàng càng thêm phần lộng lẫy.
Bấy giờ có viên Đô hộ sứ nhà Đường tên là Cao Biền rất ngưỡng mộ danh
tiếng của nàng, bèn tìm đến kết mối nhân duyên. Ông bà Hùng Thụy vui vẻ
chấp thuận, sau đó Cao Biền đưa bà Ả Lã về Phủ trị ở La Thành, phong làm
Nga hoàng đệ nhị cung phi. Cao Biền thường đưa bà đi thăm thú đất nước,
một hôm bà cùng chồng đi công du thiên hạ, thuyền nhằm hướng Tây Nam
thẳng tiến, mới đi cách thành Đại La mươi dặm, thấy một vùng cây cối tốt
tươi, sông núi vờn quanh như uốn lượn, thế đất “tiền sơn hậu thủy”. Là một vị
tướng thông làu kinh sử, giỏi phong thủy, Cao Biền nhìn thấy thế đất địa linh
liền cho thuyền ghé vào, đến trang Vạn Bảo, huyện Thanh Oai, phủ Ứng
Thiên, đạo Sơn Nam, lại thấy một ngôi chùa nhỏ, hai bên cạnh chùa có hai
37
giếng nước trong, nước xanh như ngọc, Cao Biền liền thốt lên: “đất rồng chầu
hổ phù, lại có tụ khí dưỡng thanh long”. Bà Ả Lã Đê Nương thấy quang cảnh
như mới lạ, gió thoảng qua mát mẻ thật là một cảnh thanh nhàn, thăm dân
thấy no đủ, phong tục thuần hậu bà bèn xin với chồng ở lại đây dạy cho dân
làng biết cách trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, trồng lúa, ngô khoai…
Một hôm, bà ngồi ở hành cung, hai bên tả hữu nhân dân đứng hầu,
trông ra xa thấy nước sông cuộn trào, sóng lớn hung dữ, bà ra xem, nhìn thấy
con sông nhỏ bé mà có sóng lớn cuồn cuộn như biển nên cho là điềm xấu.
Bỗng nhiên trời đất tối sầm, gió mưa dữ dội, bà bước xuống thuyền rồng rồi
hóa. Lúc đó là ngày 25 tháng Chạp. Trong khoảnh khắc, gió mưa tạnh hẳn,
trời đất lại phong quang, mọi người trông theo chỉ thấy áo mũ ở đó, làm lễ
rước về và làm biểu tấu lên vua xin triều đình gia phong mỹ tự cho bà. Vì bà
sống ở trang Vạn Bảo lại là cung phi của quốc vương thiên tử, nên phong cho
tên huệ cùng với tên của Biền công, viết thần hiệu là: “Đương cảnh thành
hoàng, quốc vương thiên tử, Ả Lã Đê Nương Nga Hoàng đại vương” và được
gia phong hai mỹ tự là Trinh Thục và Tứ Hòa, lại cho lập miếu ở hành cung
cũ và cho phép trang Vạn Bảo phụng thờ để bảo hộ cho dân, lưu truyền hương
hỏa, vạn đại vô cương.
Từ đó về sau, trải qua các đời Đinh, Lý, Trần, Lê khai sáng cơ đồ, bà
thường hiển linh cứu nước giúp dân, vì thế được nhiều đế vương gia phong
mỹ tự”12.
* Sự biến đổi của đình làng hiện nay:
Đình Vạn Phúc là nơi thờ thánh nhưng cũng là nơi diễn ra những sinh
hoạt văn hóa cộng đồng dân cư làng Vạn Phúc, những truyền thuyết dân gian,
những nghi thức thờ cúng, lễ hội…Phát huy truyền thống của cha ông trong
thời đại Hồ Chí Minh, thời kỳ khởi nghĩa, đình làng Vạn Phúc là địa điểm liên
12
Sở Văn hóa thông tin Hà Tây, 2005, Lý lịch di tích đình Vạn Phúc, tr 2 – 5.
38
lạc của nhiều cán bộ cách mạng về địa phương hoạt động. Trong Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền năm 1945, đình là nơi đầu tiên diễn ra cuộc mít tinh
cướp chính quyền của thị xã Hà Đông. Kháng chiến chống Mỹ, cũng dưới
mái đình này đã tiễn đưa bao lượt người con Vạn Phúc lên đường đánh giặc.
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi nhưng 118 người
con ưu tú của làng Vạn Phúc đã mãi mãi ra đi. Những đóng góp đó dưới mái
đình ngày nào đã được tổ quốc ghi nhận, Nhà nước và Chính phủ tặng nhiều
bằng khen, huy chương và các danh hiệu cao quý. Trước đây, ngôi đình đóng
vai trò là một “trung tâm thương mại” truyền thống của người làng Vạn Phúc
– chợ Đình, họp từ ngày mồng 2 – mồng 7 hàng tháng. Loại hình thương mại
này phổ biến ở hầu khắp các làng quê trước đây, nhưng hiện nay cũng giống
như ở Vạn Phúc, chúng đã lùi xa vào dĩ vãng. Riêng ở làng Đăm, Tây Tựu,
Từ Liêm, Hà Nội, sự tồn tại phiên chợ đình hiện nay diễn ra vào các ngày
4,9,14,19,24,29 hàng tháng là một nét văn hóa làng quý hiếm còn tồn tại.
Ngày nay, đình có vai trò là nơi thờ tự của thành hoàng làng, thỏa mãn nhu
cầu sinh hoạt tín ngưỡng của người dân Vạn Phúc.
Từ khi xây dựng đến nay, ngôi đình đã được tu sửa nhiều lần, lần trùng
tu lớn nhất vào thời Nguyễn. Hiện nay, trước cảnh nhà cửa và các công trình
công cộng của làng xây dựng một cách ồ ạt, đình Vạn Phúc trở nên thấp quá,
vì thế từ tháng 5 – 2011, bắt đầu xây dựng lại mới đình trên nền kiến trúc cũ,
đến giờ vẫn chưa xây xong.
2.1.2.2. Chùa Vạn Phúc
Chùa Vạn Phúc tồn tại nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tín
ngưỡng của cộng đồng dân làng Vạn Phúc. Đây là một kiến trúc Phật giáo thờ
Phật theo phái Đại thừa, xét theo giá trị nổi bật là di tích kiến trúc nghệ thuật
dạng chùa.
39