1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 104 trang )


3



đồng xây dựng...và những dịch vụ mang tính tài chính như thoả ước thấu chi,

thoả ước tham gia liên doanh, tái bảo hiểm và những cam kết tài chính khác.

Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hành kinh doanh quốc tế, vấn đề thuật

ngữ “bảo lãnh ngân hàng” vẫn còn bỏ ngỏ. Những từ như “bond”,

“guarantee”, “suretyship” và cả “undertaking” được dùng lẫn cho nhau với

nghĩa bảo lãnh ngân hàng và cho đến nay vẫn chưa có một thoả ước thống

nhất quốc tế nào khẳng định đâu là thuật ngữ chuẩn. Điều này cho thấy tính

chất lỏng lẻo trong việc sử dụng thuật ngữ để khẳng định bản chất một cam

kết bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động ngoại thương.

Bảo lãnh nói chung và cơ bản được NHTM phát hành, do vậy người ta

thường gọi “bảo lãnh’’ là “Bank guarantee”. Tuy nhiên, luật và tập quán của

từng nước có những khác biệt.

Theo bộ luật dân sự Việt Nam, bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên

bảo lãnh) cam kết với người có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh hay người

hưởng thụ) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được

bảo lãnh) nếu khi hết thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa

vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thoả thuận về việc

người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng nhận bảo lãnh với bên

yêu cầu bảo lãnh về việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà bên xin bảo lãnh cam

kết. Ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm thực hiện thay những cam kết mà bên xin

bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.

Bảo lãnh ngân hàng thường cho các mục đích vay vốn trong và ngoài

nước dưới hình thức tín dụng tài chính (vay vốn bằng tiền) hoặc tín dụng

thương mại (vay vốn bằng hàng hoá hoặc mua chịu trả chậm, ký cược để

tham gia đấu thầu, đấu giá hoặc thực hiện hợp đồng hay bảo lãnh trả lại tiền



4



đặt cọc…). Như vậy bảo lãnh ngân hàng là bảo lãnh với mục đích kinh tế cho

các chủ thể tham gia bảo lãnh. Tất nhiên không phải bất cứ ngân hàng nào

cũng có quyền tham gia bảo lãnh mà chỉ những ngân hàng được luật pháp cho

phép và có đủ uy tín và tiềm lực tài chính.

1.1.2. Mục đích và chức năng của bảo lãnh

1.1.2.1. Mục đích của bảo lãnh

Mục đích của hoạt động bảo lãnh nói chung là:

Ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phát sinh trong các quan hệ kinh tế với các

chủ thể trong nền kinh tế. Trong thương mại quốc tế, rủi ro có thể phát sinh

bất kỳ lúc nào trong các hoạt động kinh doanh cho nên người ta phải hạn chế

khả năng xảy ra rủi ro. Do chưa biết rõ nhau, nhà xuất khẩu yêu cầu nhà nhập

khẩu phải được tổ chức có uy tín, thường là ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh

toán, còn nhà nhập khẩu cũng yêu cầu nhà xuất khẩu được ngân hàng bảo

lãnh giao hàng hay thực hiện hợp đồng.

Bên cạnh đó, việc thực hiện bảo lãnh còn nhằm mục đích đền bù những

thiệt hại về phương diện tài chính cho người được bảo lãnh khi nó xảy ra thiệt

hại. Thông thường trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy

đủ nghĩa vụ đã cam kết thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán bảo

lãnh. Lúc này ngân hàng sử dụng số tiền bảo lãnh để bù đắp những thiệt hại

về phương diện tài chính cho người thụ hưởng.

1.1.2.2. Các chức năng của bảo lãnh

Thứ nhất: Bảo lãnh ngân hàng mang chức năng pháp lý.

Người bán, người nhận thầu thông qua thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng

bảo lãnh đấu thầu hoặc thông qua thư bảo lãnh tín dụng… do ngân hàng mình

mở thừa nhận nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của mình.



5



Thứ hai: Bảo lãnh ngân hàng mang chức năng thúc đẩy.

Người bán có nghĩa vụ giao hàng, người mua có nghĩa vụ thanh toán

theo quy định của hợp đồng. Ngân hàng chỉ đứng ra bảo lãnh việc thực hiện

nghĩa vụ của doanh nghiệp. Còn việc thực hiện như thế nào là doanh nghiệp

phải lo lấy. Điều này buộc doanh nghiệp phải tính toán sao cho hiệu quả có

được trong kinh doanh là cao nhất. Việc thực hiện nghĩa vụ này ảnh hưởng

trực tiếp đến quyền lợi người xin bảo lãnh. Vì vậy bảo lãnh có tác dụng thúc

đẩy doanh nghiệp thực hiện hợp đồng.

Thứ ba: Bảo lãnh ngân hàng có thể sử dụng như một công cụ tài trợ

cho các ngành kinh tế mũi nhọn và ngành kinh tế kém phát triển.

Thông qua bảo lãnh mua chịu hàng hoá, doanh nghiệp có được máy móc

thiết bị, nguyên vật liệu… đảm bảo kịp thời cho sản xuất. Bản thân chính sách

bảo lãnh của ngân hàng có thể khuyến khích thúc đẩy các ngành kinh tế mũi

nhọn bằng cách tăng cường ưu tiên bảo lãnh hoặc giảm phí bảo lãnh. Nhờ bảo

lãnh, doanh nghiệp có thể có đầy đủ uy tín trong đàm phán vay vốn, dự thầu

với nước ngoài, giúp doanh nghiệp yên tâm trong quá trình thực hiện hợp

đồng.

Thứ tư: Bảo lãnh mang tính chất đền bù.

Trong trường hợp hợp đồng không thực hiện được hoặc thực hiện không

đầy đủ, người mua, người bán, người cho vay…sẽ nhận được một khoản tiền

bồi thường do thiệt hại phát sinh từ việc hợp đồng không được thực hiện.

1.1.3. Điều kiện cần thiết để thực hiện bảo lãnh của các NHTM

Để xử lý tốt các vấn đề thường gặp trong giao dịch và quá trình bảo

lãnh, các ngân hàng cần đáp ứng một số điều kiện sau:

Thứ nhất, cần phải có nguồn tài chính vững chắc



6



Đây có thể coi là điều kiện đầu tiên quan trọng nhất để đảm bảo cho

các ngân hàng có khả năng thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh của mình. Bởi

lẽ, nghiệp vụ bảo lãnh cũng giống như rất nhiều các nghiệp vụ khác của Ngân

hàng không tránh khỏi những rủi ro trong thanh toán, các Ngân hàng phải

luôn sẵn có những khoản dự phòng trong trường hợp người được bảo lãnh

không có khả năng thanh toán. Hơn thế, một nguyên nhân nữa không kém

phần quan trọng đó là chỉ có những ngân hàng có tiềm lực tài chính vững

chắc, dồi dào mới có đủ khả năng và uy tín để đứng ra bảo lãnh, đặc biệt là

trong giao thương quốc tế.

Thứ hai, các bộ phận kinh doanh của ngân hàng giàu kinh nghiệm

và linh hoạt.

Nếu không xây dựng được một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và cơ

sở vật chất đầy đủ tiện ích, ngân hàng sẽ chỉ đóng vai trò trung gian chuyển

tiếp cho một ngân hàng khác quy mô lớn hơn để xử lý. Và điều này khiến cho

khách hàng hao tốn nhiều thời gian hơn trong khâu thanh toán bù trừ, tốn kém

hơn trong chi phí xử lý giao dịch, và còn có thể làm sai lệnh thông tin hoặc

phát sinh những vấn đề vướng mắc.

Các cấp quản lý của ngân hàng phải có năng lực thật sự, hiểu biết cặn

kẽ về công việc và quy trình tác nghiệp, nắm vững luật lệ, tập quán thương

mại trong nước và quốc tế, môi trường kinh doanh, về đặc điểm khách hàng

hiện có và khách hàng tiềm năng...Từ đó họ mới có khả năng ra quyết định

hợp lý và đúng đắn, tối ưu nhất.

Thứ ba, quan hệ ngân hàng đại lý rộng lớn, vững chắc

Ngoài việc được cơ quan có thẩm quyền (Ngân hàng Trung ương) cho

phép cung cấp dịch vụ ngân hàng quốc tế, quy mô kinh doanh của ngân hàng

tối thiểu cũng phải đạt mức đủ để tạo uy tín kinh doanh trong lĩnh vực ngân



7



hàng, tạo điều kiện xác lập các mối quan hệ ngân hàng đại lý rộng khắp và

bền chặt.

Thứ tư, bảo đảm mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ giữa ngân hàng với

các cơ quan tổ chức cung ứng dịch vụ như các tổ chức bảo hiểm và bảo lãnh

tín dụng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, cục xúc tiến thương

mại...Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể tận dụng những ích lợi từ những dịch

vụ của các tổ chức này cung cấp nghiệp vụ, đồng thời có biện pháp xác lập

cấu trúc dịch vụ ngân hàng cung ứng phù hợp.

1.1.4. Các bên tham gia trong hoạt động bảo lãnh

Từ khái niệm trên chúng ta thấy việc tham gia bảo lãnh phải có ít nhất

ba chủ thể kinh tế trở lên:

- Người hưởng bảo lãnh (người thứ nhất)

- Người yêu cầu bảo lãnh (người thứ hai)

- Người nhận bảo lãnh (người thứ ba)

Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh:

Thứ nhất: Bảo lãnh được phát hàng theo yêu cầu của người hưởng

nhằm bảo đảm quyền lợi của họ trong hợp đồng thương mại. Cụ thể người

bán hay người mua đều có thể là người hưởng lợi.

Thứ hai: Ngân hàng đứng ra bảo lãnh tức là cam kết trách nhiệm của

mình sẽ bồi thường thiệt hại cho người hưởng trong trường hợp người được

hưởng bảo lãnh không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng thương mại.

Thứ ba: Về hình thức: Bảo lãnh ngân hàng thường là thư bảo lãnh, một

chữ ký chấp nhận hối phiếu, một L/C mở nhập hàng trả chậm … thực chất là

cam kết đảm bảo trả tiền cho người hưởng.

Về nội dung: Đó là hình thức đảm bảo nợ của ngân hàng. Việc bảo lãnh

đảm bảo cho quyền lợi người hưởng một cách chắc chắn, bên cạnh đó thúc



8



đẩy người xin bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của mình. Do bảo lãnh là đảm bảo

đối nhân (dùng uy tín bảo lãnh) nên bảo lãnh rất thích hợp với hai đối tác ở

cách xa nhau trong thương mại quốc tế. Ngân hàng bảo lãnh không phải bỏ ra

một khoản vốn nào mà chỉ dùng uy tín của mình là có thể thu lệ phí cho mình.

Đó chính là điều mà ngân hàng bảo lãnh chịu chia sẻ rủi ro với người hưởng.

Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là trách nhiệm về tài chính. Đây là

trách nhiệm không huỷ ngang và trả tiền ngay khi các điều khoản trong thư

bảo lãnh được tuân thủ.

Ngân hàng không có chức năng làm trọng tài phán xử các khiếu nại hoàn

thiện hợp đồng hoặc đền bù vỡ nợ. Bản thân thư bảo lãnh đã quy định ngân

hàng có trách nhiệm thực hiện ngay các yêu cầu của người hưởng trước khi

làm rõ những bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nếu sau này ngân

hàng tìm được bằng chứng về sự gian lận của người được hưởng thì ngân

hàng có quyền đòi là tiền bảo lãnh từ người hưởng, việc này tách biệt hẳn với

việc ngân hàng bảo lãnh cho người xin bảo lãnh.

Sơ đồ bảo lãnh:

Người hưởng bảo

lãnh



Người yêu cầu bảo

lãnh



Người nhận bảo

lãnh



1.2. HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TRONG NGOẠI THƢƠNG CỦA CÁC NGÂN

HÀNG THƢƠNG MẠI



1.2.1. Tính tất yếu của việc phát triển hoạt động bảo lãnh trong các

NHTM ở Việt Nam

Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu



9



Kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã đạt được

những thành tựu đáng kế trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là thương mại quốc tế

(TMQT). Tốc độ xuất khẩu trong suốt thập kỷ qua gia tăng mạnh mẽ từ mức

2042 triệu USD năm 1991 lên tới 14308 triệu USD năm 2000. Nguồn thu từ

xuất khẩu trong những năm qua đã góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho

nhập khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính-tiền tệ Châu Á từ

cuối năm 1997, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng chững

lại do đây là thị trường chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Tăng

trưởng xuất khẩu năm 1998 chỉ là 0.91% so với 27.69% năm 1997.

Tình trạng này một phần do mức cầu về hàng hóa của Việt Nam giảm

sút đáng kể, bên cạnh đó khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt

Nam cũng là mối quan tâm hàng đầu. Theo số liệu mới đây của cuộc điều tra

về hiện trạng phát triển kinh doanh và khu vực tư nhân của Viện nghiên cứu

và quản lý kinh tế trung ương thì có tới 86/336 (chiếm 24.2%) doanh nghiệp

Việt Nam đang có hoạt động xuất khẩu thì cho rằng khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp mình kém và rất kém, chỉ có 32/336 (chiếm 9.5%) doanh

nghiệp cho rằng mình có đủ khả năng cạnh tranh, số còn lại cho rằng khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình ở mức trung bình và không thể xác

định được mức độ về khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh kém và rất

kém chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp

nhẹ. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh có vẻ kém dường như bộc lộ ở

những ngành cần nhiều vốn và đòi hỏi công nghệ cao.

Trong khi lộ trình tiến tới hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang tới

gần thì danh tiếng, uy tín cũng như quy mô của doanh nghiệp Việt Nam vẫn

còn rất nhỏ bé. Mặc dù trong lĩnh vực xuất nhập khẩu số lượng các doanh



10



nghiệp tham gia tăng lên nhanh chóng nhưng năng lực và hiệu quả của các

doanh nghiệp còn khá hạn chế. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp nhập

khẩu của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2000 chỉ

có 38% số doanh nghiệp được điều tra có số vốn đăng ký trên 1000 USD,

31% có số vốn đăng ký từ 50 nghìn đến 100 nghìn USD và 31% có số vốn

đăng ký dưới 50 nghìn USD. Cũng theo số liệu điều tra này, chỉ có 7% doanh

nghiệp đạt kim ngạch trên 1 triệu USD, 13% doanh nghiệp đạt kim ngạch từ

500 nghìn đến 1 triệu USD, 51% doanh nghiệp đạt kim ngạch từ 100-500

nghìn USD, còn lại là dưới 100 nghìn USD trong năm 1999.

Để tối ưu hóa hoạt động xuất nhập khẩu và sử dụng triệt để tiềm năng

kinh tế trong nước, thương mại Việt nam cần phải được tập trung hỗ trợ, làm

tốt các giai đoạn xúc tiến xuất khẩu ở cấp vĩ mô và cấp doanh nghiệp. Bên

cạnh đó, các doanh nghiệp cần được khuyến khích đổi mới cơ cấu mặt hàng

và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm

trong khu vực.

Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của khu vực thương mại Việt

Nam là củng cố thị trường cũ, mở rộng thị trường mới và nâng cao vị thế của

sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để làm được việc này, bên cạnh

những chính sách về xuất nhập khẩu, Việt Nam cần có một cơ chế bảo lãnh

xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều

kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập dần dần với hệ thống thương

mại toàn cầu.

Điều này khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng trong

việc thúc đẩy và mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu thông qua việc đáp ứng

nhu cầu tín dụng cũng như vấn đề uy tín cho các doanh nghiệp. Và trong hệ



11



thống các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cho các doanh nghiệp, hoạt động

bảo lãnh là một trong những hoạt động tối ưu cả về uy tín cả về nhu cầu vốn.

Mặt khác, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, luật pháp quy

định các quan hệ giao dịch tài chính-tiền tệ phải được bên thứ ba là định chế

tài chính hoặc ngân hàng bảo lãnh. Do vậy khi các doanh nghiệp Việt Nam

tham gia quan hệ thương mại với các đối tác nước ngoài đòi hỏi phải có một

tổ chức đầy đủ tư cách pháp lý đứng ra bảo lãnh theo yêu cầu của họ. Từ các

yêu cầu trên có thể thấy rằng cần thiết phải phát triển hoạt động này tại Việt

Nam.

Về mặt lý thuyết như đã trình bày ở trên, hoạt động bảo lãnh có thể

được thực hiện bởi một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nhưng thực tế đây

chỉ là chức năng bổ sung của các doanh nghiệp này, hơn nữa các tổ chức này

ở Việt Nam hoạt động kinh doanh còn đơn điệu, mới chỉ tập trung vào một số

nghiệp vụ truyền thống như kinh doanh bảo hiểm (đối với công ty bảo hiểm),

cho thuê tài chính (đối với công ty tài chính)…Vì vậy, có thể nói ở Việt Nam,

chỉ có hệ thống các ngân hàng thương mại mới có đầy đủ các năng lực tài

chính, uy tín và chuyên môn để thực hiện hoạt động bảo lãnh cho các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu. Mặt khác, hệ thống các ngân hàng thương mại luôn

luôn có khả năng cung cấp một hệ thống các sản phẩm-dịch vụ tạo điều kiện

thuận lợi cho các quan hệ xuất nhập khẩu diễn ra một cách thuận lợi như dịch

vụ thanh toán, chiết khấu….

Trong những năm gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

đã thực hiện được sứ mệnh của mình là hệ thống các sản phẩm, dịch vụ và hệ

thống các giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ đã hỗ trợ đắc lực cho các doanh

nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường quốc tế và từng bước khẳng định

được thương hiệu Việt Nam với thế giới.



12



Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu từ phía bản thân các ngân hàng thương

mại

Hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam đang đổi mới theo cơ chế thị

trường định hướng XHCN, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh

tế, hiệu quả hoạt động chưa cao. Hiện nay 80% doanh thu của các NHTM

Việt Nam đều từ hoạt động tín dụng, các nghiệp vụ các rất ít ỏi và đơn điệu

nên chưa thực sự là NHTM của nền kinh tế thị trường.

Tỷ trọng thu nhập từ các dịch vụ và các nghiệp vụ khác trong tổng thu

nhập còn quá nhỏ so với tiềm năng và lợi thế của các NHTM như số liệu của

một số ngân hàng được coi là hàng đầu của Việt Nam dưới đây:

Bảng 1.1. Tỷ trọng thu nhập dịch vụ bảo lãnh trên tổng doanh thu

Năm



Tỷ trọng thu dịch vụ/Tổng doanh thu (%)

NHCT



NHNT



NH á Châu



1999



5.4



12.6



14.1



2000



4.1



13.1



15.3



2001



6.2



14.6



16.1



2002



5.7



15.8



17.3



2003



6.6



16.8



18.4



2004



6.8



17.2



19.3



Tỷ trọng trung bình



5.8



15.1



16.8



Nguồn: Ngân hàng công thương, VCB, Ngân hàng Á Châu

Trong khi đó nước ta tín dụng ngân hàng hoạt động trong một môi

trường kinh tế và pháp luật chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, hiệu lực pháp chế

thấp, thiên tai thường xảy ra nên độ rủi ro cao, làm giảm sút kết quả kinh



13



doanh của các NHTM Việt Nam. Chính vì vậy, các NHTM Việt Nam cần

phải tiếp tục đổi mới hoạt động, tìm ra những giải pháp hữu hiệu phục vụ

khách hàng tốt hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính mình. Một

trong những hướng đi đó là phải đa dạng hóa các hoạt động. Do đa dạng hóa

các hoạt động giúp các ngân hàng phân tán rủi ro, làm tăng lợi nhuận, thúc

đẩy các hoạt động cùng phát triển và đặc biệt làm tăng khả năng cạnh tranh

trong nền kinh tế thị trường.

Mặt khác, theo một số nghiên cứu gần đây của nhiều nhà kinh tế cho

thấy, hoạt động ngoài bảng cân đối đã thực sự giúp các ngân hàng hạn chế

những biến động trong thu nhập ròng. Đồng thời cùng với việc ngân hàng sử

dụng các công cụ ngoại bảng, sự biến động trong mức chênh lệch giữa thu từ

lãi và chi phí trả lãi trong những năm gần đây cũng không còn quá lớn.

Do vậy, hoạt động bảo lãnh là một trong những hoạt động chiếm ưu thế

do có chi phí tương đối thấp và tính đòn bẩy cao.

Bên cạnh đó, khi các NHTM thực hiện hoạt động bảo lãnh có nghĩa là

ngân hàng đang uy tín và danh tiếng của mình để đảm bảo cho các doanh

nghiệp của Việt Nam trong mối quan hệ với bạn hàng quốc tế. Như vậy, ngân

hàng vừa có thế giúp các khách hàng của mình hoàn tất được thương vụ với

đối tác vừa có thể quảng bá hình ảnh của mình khắp thế giới một cách vô

cùng hiệu quả hơn bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào khác.Trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế khi các cam kết của Việt Nam với các tổ

chức cá nhân quốc gia được thực hiện, các NHTM Việt Nam sẽ có một sân

chơi bình đẳng với các NHTM nước ngoài cả về uy tín và danh tiếng khi thực

hiện hoạt động bảo lãnh cũng như các hoạt động khác là một nguồn lực có giá

trị lớn lao,tạo lên sức cạnh tranh của các ngân hàng.

Có thể nói cùng với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, hoạt động

bảo lãnh trong ngoại thương của các NHTM giữ một vị thế nhất định trong



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

×