1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

2 TÌNH HÌNH THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƢƠNG HÀ NỘI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 104 trang )


46



- Các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng liên doanh, ngân hàng

thương mại cổ phần tại Việt Nam, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được

thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng.

- Các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hoạt động theo luật pháp Việt

Nam

Bên cạnh đó, các ngân hàng đại lý của NHNT, Hợp tác xã và các tổ chức

tín dụng khác có đầy đủ điều kiện quy định ở điều 94 Bộ Luật dân sự.

Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác liên doanh và

tham gia đầu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện

dự án đầu tư tại Việt Nam, Hộ kinh doanh cá thể cũng là đối tượng được bảo

lãnh của NHNT Hà Nội.



2.2.2 Tình hình bảo lãnh trong ngoại thƣơng tại Ngân hàng ngoại

thƣơng Hà Nội từ năm 2001 đến nay

Bảo lãnh là hoạt động quan trọng trong cơ cấu hoạt động kinh doanh của

Ngân hàng. Nghiệp vụ này không những tạo ra một phần thu nhập cho Ngân

hàng mà nó còn tạo điều kiện tương hỗ cho các dịch vụ khác phát triển, nâng

cao uy tín của ngân hàng.

Là một trong những Ngân hàng lớn, có uy tín tại Việt Nam, Ngân hàng

ngoại thương Hà Nội luôn coi trọng nghiệp vụ bảo lãnh với phương châm

mang đến cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất.



2.2.2.1 Tình hình chung

Nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội được tổng kết

và phân tích thành 2 nhóm chính:

- Bảo lãnh tín dụng hay bảo lãnh vay vốn



47



gồm có:

 Bảo lãnh vay thương mại

 Bảo lãnh vay tín dụng

- Bảo lãnh cho một trách nhiệm cụ thể (hay bảo lãnh phát hành thư)

Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hoạt

động thương mại quốc tế và cùng với sự ra đời của một số văn bản pháp luật

điều chỉnh hoạt động bảo lãnh nên tình hình hoạt động của từng nhóm bảo

lãnh có những biến động mạnh mẽ.



Bảng 2.3: Tình hình bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Đơn vị tính: triệu USD

TT



Các khoản



2001



2002



2003



2004



2005



1



Dư nợ đầu kỳ



262.7



233.1



253.6



232.5



203



2



Nhận nợ



120.1



145.5



122.8



135.1



155.5



3



Trả nợ



149.7



125



143.9



164.6



163.5



4



Dư nợ cuối kỳ



233.1



253.6



232.5



203



195



Ghi chú:

- Dư nhận nợ đầu kỳ là số tiền Ngân hàng ngoại thương Hà Nội đã ký

chấp nhận bảo lãnh cho người được bảo lãnh trong một giai đoạn cụ thể

(thường là 1 năm)

- Số trả nợ là số tiền ngân hàng ngoại thương Hà Nội đã thực hiện trả

cho người nhận bảo lãnh hoặc được giải tỏa sau khi bảo lãnh hết hiệu lực

thường là 1 năm.

- Số dư nợ là số tiền Ngân hàng ngoại thương Hà Nội đang bảo lãnh tính

đến cuối năm.



48



Dư nợ cuối kỳ = Dư nợ đầu kỳ + Số nhận nợ trong kỳ – Số trả nợ trong kỳ.

Có thể thấy rằng số nhận nợ của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội liên

tục gia tăng qua các năm và đỉnh cao là năm 2005 đạt tới 155.5 triệu USD.

Tuy nhiên số trả nợ cũng gia tăng. Chính điều này dẫn đến số dư nợ cuối kỳ

giảm với tốc độ tương đối cao. Năm 2005 số dư nợ cuối kỳ chỉ còn 195 triệu

USD. Sự thay đổi này do một số nguyên nhân, chúng ta sẽ đi sâu vào phân

tích hoạt động của từng nhóm bảo lãnh.

2.2.2.2 Bảo lãnh vay thương mại

a. Phân tích hoạt động bảo lãnh vay thương mại

Bảo lãnh vay tương mại chiếm một tỷ trọng lớn trong hoạt động bảo lãnh

của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội. Dư nợ bảo lãnh vay thương mại luôn

chiếm khoảng 65-70% tổng dư nợ hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng.

Bảng 2.4: Bảo lãnh vay thương mại

Đơn vị tính: triệu USD

TT



Các khoản



2001



2002



2003



2004



2005



1



Dư nợ đầu kỳ



202.6



174.4



178.7



150.1



113.2



2



Nhận nợ



80.9



104.1



79.7



89.4



108.1



3



Trả nợ



109.1



99.8



108.3



126.3



91.4



4



Dư nợ cuối kỳ



174.4



178.7



150.1



113.2



129.9



Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội năm 2005



Hoạt động bảo lãnh vay thương mại gia tăng qua các năm. Điều này có

được là do một số nguyên nhân:

- Tình hình kinh tế xã hội nước ta



49



Từ năm 2003 đến năm nền kinh tế có sự tăng trưởng nhanh và ổn định,

đạt mức trung bình7.5%/năm, lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt

mức cao. [Năm 2004 tăng thu hút được hơn 4.6 tỷ USD. Năm 2005 có thể đạt

hơn 5.4 tỷ USD]. Thêm vào đó sự phát triển về thương mại quốc tế giữa Việt

Nam và các nước khác phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn này được coi là sự bùng

nổ về hợp tác quốc tế. Chính vì vậy hoạt động vay thương mại diễn ra nhộn

nhịp, bảo lãnh vay thương mại cũng có những bước phát triển.

- Môi trường pháp lý:

Hoạt động vay vốn thương mại thông qua mở L/C mua hàng trả chậm

diễn ra tràn lan, thiếu kiểm soát, dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của hoạt

động này, cũng như mang những rủi ro cao cho hoạt động bảo lãnh chúng.

Đó là nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới hoạt động bảo lãnh không

chỉ ở riêng ở Ngân hàng ngoại thương Hà Nội mà diễn ra ở hầu hết các ngân

hàng thương mại.

- Nguyên nhân nội tại

Ngoài ra phải kể đến những nguyên nhân trong bản thân Ngân hàng

ngoại thương Hà Nội gây ra những ảnh hưởng tới hoạt động bảo lãnh. Trong

giai đoạn này nhiều thư bảo lãnh được mở tràn lan điều này ảnh hưởng không

nhỏ tới hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội.

Trong năm 2003, 2004 số nhận nợ giảm có thể do một số nguyên nhân

sau:

- Ngân hàng đã nhận thức được những rủi ro cao của loại hình bảo lãnh

vay thương mại. Các doanh nghiệp trong nước mua hàng trả chậm thường do

thiếu vốn. Lợi dụng bên nước ngoài cho phép trả tiền sau một khoảng thời

gian, các doanh nghiệp tranh thủ nhập hàng hóa về rồi gom tiền trả nợ cho

bên nước ngoài. Song ở khâu này không phải không có rủi ro. Có thể do sự



50



biến động về giá cả nên doanh nghiệp có thể phải bán với giá thấp hơn giá

mua hoặc thậm chí không tiêu thụ được hàng. Hoặc có thể là do sự thay đổi tỷ

giá sẽ đem đến những bất lợi đối với các doanh nghiệp nhập khẩu.

- Ngoài ra rủi ro của hình thức này nằm ở chính mục tiêu mua hàng ban

đầu của doanh nghiêp. Họ mua hàng trả chậm không phải để hưởng chênh

lệch giá mà mục tiêu chính là rút tiền ra khỏi ngân hàng. Nếu như việc có

được tiền thông qua hình thức tín dụng đều phải qua thủ tục rất chặt chẽ thì

lợi dụng hình thức quản lý lỏng lẻo trong hoạt động bảo lãnh nhập khẩu trả

chậm các doanh nghiệp này có được tiền một cách dễ dàng. Và khi có tiền các

doanh nghiệp có thể đầu tư sang lĩnh vực khác mà không trả cho bên nước

ngoài. Khi kinh doanh sang lĩnh vực khác, các doanh nghiệp này có thể gặp

những rủi ro và cuối cùng không có tiền thanh toán cho bên nước ngoài. Khi

đến hạn thanh toán, ngân hàng phải đứng ra trả tiền cho bên nước ngoài và

ghi nhận nợ cho doanh nghiệp và chuyển chúng thành các khoản nợ bắt buộc.

Như vậy hoạt động bảo lãnh này thu được 1% phí song lại chịu rủi ro

quá lớn. Ngân hàng không đủ khả năng kiểm soát được hàng hóa trả chậm

cũng như không kiểm soát được lượng tiền mà các doanh nghiệp thu được sau

khi bán hàng. Chính điều này Ngân hàng đã thu hẹp hoạt động của mình.

Điều này làm cho số nhận nợ của ngân hàng trong những năm gần đây có

chiều hướng giảm.

Tóm lại, các nguyên nhân trên đây khiến cho hoạt động bảo lãnh của

Ngân hàng ngoại thương Hà Nội có những biến đổi theo xu hướng thu hẹp lại,

đồng thời Ngân hàng xúc tiến việc trả nợ và giá trị của các khoản trả nợ trong

giai đoạn này lớn hơn so với các khoản nhận nợ.

b. Dư nợ và dư nợ quá hạn



51



Số trả nợ của Ngân hàng ở mức cao chứng tỏ sự cố gắng của Ngân hàng

nhằm giải quyết những món nợ còn tồn đọng từ trước đến nay. Những cố

gắng trong hoạt động bảo lãnh còn thể hiện ở việc giảm số dư nợ quá hạn. Dư

nợ quá hạn là số nợ của Ngân hàng với nước ngoài đến hạn mà vẫn chưa trả

được.

Bảng 2.4: Dư nợ và dư nợ quá hạn bảo lãnh vay thương mại

TT



Các khoản



2001



2002



2003



2004



2005



1



Dư nợ (triệu USD)



174.4



178.7



150.1



113.2



129.9



2



Dư nợ quá hạn (triệu USD)



56.51



73.62



58.84



35.77



38.71



3



Tỷ lệ dư nợ quá hạn BL(%)



32.4



41.2



39.2



31.6



29.8



(Nguồn: Ngân hàng ngoại thương Hà Nội năm 2005)



Mặc dù giảm dư nợ và dư nợ quá hạn cũng giảm theo. Tuy nhiên tỷ lệ dư

nợ quá hạn vẫn ở mức cao. Tỷ lệ dư nợ quá hạn bảo lãnh trung bình khoảng

35%. Trong số dư nợ quá hạn thì hầu hết số nợ từ thời kỳ trước tồn đọng lại,

số mới có phát sinh nhưng không đáng kể.

c. Một số nhân tố khác ảnh hưởng tới hoạt động vay thương mại

Doanh thu bảo lãnh vay thương mại tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội

đang có xu hướng thu hẹp lại, tập trung phục vụ việc nhập nguyên liệu gia

công chế biến, tái xuất khẩu. Sự thu hẹp này không hẳn phản ánh sự đi xuống

của các hoạt động bảo lãnh vay thương mại mà còn mang ý nghĩa chấn chỉnh

lại hoạt động bảo lãnh trước đó đã phát triển tràn lan và nâng cao chất lượng

giảm rủi ro cho hình thức bảo lãnh này. Tuy nhiên hoạt động bảo lãnh vay

thương mại có những hạn chế:

- Do ảnh hưởng của sự can thiệp của Chính phủ vào công việc kinh

doanh của Ngân hàng. Một số dự án Chính phủ chỉ thị cho Ngân hàng đứng ra



52



bảo lãnh mặc dù tính khả thi của dự án tương đối bấp bênh, khả năng hoàn

vốn cho bên nước ngoài là khó khăn. Rủi ro đó Ngân hàng hoàn toàn gánh

chịu. Do vậy, khi đưa ra quyết định Chính phủ cần cân nhắc nhiều mặt để

đảm bảo cho hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng ngày càng có hiệu quả.

- Còn một vấn đề còn tồn đọng trong bảo lãnh vay thương mại là vấn đề

trình độ nghiệp vụ của một số cán bộ Ngân hàng. Đôi lúc đội ngũ cán bộ

Ngân hàng còn tỏ ra non kém trong quá trình tiến hành các nghiệp vụ, thiếu

hiểu biết về pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, chưa đáp ứng được

những thay đổi của thị trường.

- Bên cạnh đó còn nhiều yếu tố khách quan như sự thiếu đồng bộ trong

chính sách thương mại, chính sách của nhà nước trong thời gian qua. Các cơ

quan thẩm định dự án đầu tư, thẩm định chất lượng, giá cả của hàng nhập

khẩu không quy rõ trách nhiệm rõ ràng về các kết quả thẩm định. Trong khi

đó việc chấp nhận bảo lãnh của ngân hàng chủ yếu dựa vào kết quả phê duyệt

của các cơ quan có thẩm quyền. Nếu có rủi ro thì cơ quan phê duyệt chỉ chịu

trách nhiệm một phần trong khi đó ngân hàng phải chịu toàn bộ trách nhiệm

về mặt tài chính

2.2.2.3 Bảo lãnh vay tài chính

Cho vay tài chính là việc các tổ chức trong và ngoài nước cho các doanh

nghiệp vay vốn dưới dạng bằng tiền để dùng vào mục đích cụ thể. Để đảm

bảo việc trả nợ, ngân hàng thường được yêu cầu bảo lãnh.

Nếu bên cho vay là nước ngoài thì thông thường ở những nước có chính

sách tài trợ xuất khẩu, người ta có thể cấp tín dụng trực tiếp cho bên nhập

khẩu để bên này có thể mua hàng của nước họ. Tuy nhiên ở Việt Nam do thị

trường tín dụng quốc tế không mấy phát triển nên hình thức này thường

không được lựa chọn. Thay vào đó các doanh nghiệp nước ngoài thường chọn



53



hình thức thanh toán trả chậm và yêu cầu ngân hàng của bên nhập khẩu phát

hành thư bảo lãnh. Chính vì vậy, bảo lãnh vay tài chính ở Việt Nam không

phát triển.

Ngoài ra có thể nêu một số lý do khiến các ngân hàng nước ngoài cho

các doanh nghiệp trong nước vay tiền mặt. Đó là ở Việt Nam trong những

năm gần đây các liên doanh giữa nước ngoài và Việt Nam được hình thành rất

nhiều. Các bên góp vốn để hình thành liên doanh và vốn này được dùng để

xây dựng nhà xưởng và nhập máy móc thiết bị. Khi liên doanh đi vào hoạt

động thì nảy sinh vấn đề thiếu vốn lưu động. Do đó họ cần có sự tác động của

ngân hàng nước ta để vay vốn cho liên doanh. Ngân hàng nước ngoài yêu cầu

Ngân hàng ngoại thương Hà Nội đứng ra bảo lãnh các khoản vay này song do

nhiều nguyên nhân chủ yếu là do Ngân hàng không thể kiểm soát được việc

sử dụng vốn. Chính vì vậy mà Ngân hàng ngoại thương Hà Nội không đứng

ra bảo lãnh. Vì những nguyên nhân trên hoạt động bảo lãnh vay tài chính ở

Ngân hàng ngoại thương Hà Nội không tồn tại.

2.2.2.4 Nhóm bảo lãnh cho một trách nhiệm cụ thể (bảo lãnh dưới dạng

phát hàng thư)

Nhóm bảo lãnh này có đặc điểm là hầu hết chúng được thực hiện thông

qua hình thức phát hành thư bảo lãnh của Ngân hàng. Trong loại hình này bao

gồm chủ yếu là bảo lãnh đầu thầu, bảo lãnh thực hiện hoạt động, bảo lãnh

thanh toán và bảo lãnh bảo hành.

a. Doanh thu của hoạt động bảo lãnh

Bảng 2.5: Tình hình bảo lãnh một trách nhiệm cụ thể

Đơn vị tính: triệu USD

TT



Các khoản



2001



2002



2003



2004



2005



54



1



Dư nợ đầu kỳ



60.1



58.7



74.9



82.4



89.8



2



Nhận nợ



39.2



41.4



43.1



45.7



47.4



3



Trả nợ



40.6



25.2



35.6



38.3



72.1



4



Dư nợ cuối kỳ



58.7



74.9



82.4



89.8



65.1



Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội Năm 2005



Có thể thấy doanh số ghi nhận nợ của loại hình phát hành thư bảo lãnh

liên tục gia tăng. Sự gia tăng này là do sự ra đời của các văn bản pháp quy:

- Quy chế về quản lý đầu tư và xây dựng kèm theo nghị định của Chính

phủ NĐ-52/CP ban hành ngày 8/7/1999 của Thủ tướng chính phủ.

- Quy chế đầu thầu theo Nghị định NĐ 88/CP ban hàng ngày 1/9/1999

Hai quy chế ra đời đã được xây dựng được khung pháp lý cho hoạt động

bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng… Trước đây các hoạt động dự thầu,

thực hiện hợp đồng ngân hàng đứng ra bảo lãnh song đây là hoạt động hoàn

toàn tự phát của các bên không có một khung pháp lý nào quy định rõ quyền

lợi và trách nhiệm cụ thể của các bên tham gia. Chính vì vậy nhiều doanh

nghiệp đã chọn phương pháp đặt cọc hơn là bảo lãnh của ngân hàng. Một lần

nữa chúng ta lại thấy việc điều chỉnh vĩ mô của Chính phủ thông qua các văn

bản pháp luật có tác động mạnh mẽ tới hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng.

b. Dư nợ quá hạn của nhóm bảo lãnh một trách nhiệm cụ thể

Dư nợ quá hạn của hình thức bảo lãnh là con số thể hiện mức độ thanh

toán cho các bên nhận bảo lãnh của Ngân hàng. Đây là con số phần nào nói

lên chất lượng của hoạt động bảo lãnh. Đối với hình thức này dư nợ quá hạn

hầu như không có. Cụ thể:

Bảo lãnh dự thầu:



55



Trong các vụ đấu thầu để đảm bảo cho người trúng thầu giữ nguyên cam

kết của mình, các bên dự thầu phải có sự đảm bảo của ngân hàng. Trị giá của

đơn bảo lãnh khoảng 5% tổng giá trị của hợp đồng. Trong hình thức này,

ngân hàng thường yêu cầu người được bảo lãnh đặt cọc 100% số tiền được

bảo lãnh Bởi vì ngân hàng khó đánh giá mức độ tin cậy của người dự thầu.

Trong trường hợp này Ngân hàng ngoại thương Hà Nội sẽ không gặp một

chút rủi ro nào. Với tỷ lệ đặt cọc là 100% số tiền bảo lãnh, hình thức này gần

như mất đi tính chất “bảo lãnh” của nó và có lẽ chỉ như một hình thức dịch vụ

đơn thuần. Song các nhà đầu tư dự thầu vẫn thường chấp nhận bảo lãnh của

ngân hàng hơn là đem tiền đặt cọc tại chỗ cho người mở thầu. Bởi vì hầu hết

các doanh nghiệp có tài khoản ở Ngân hàng ngoại thương Hà Nội, việc

chuyển tiền tương đối đơn giản, hoàn toàn chỉ trên giấy tờ, do đó họ sẽ yên

tâm hơn so với việc trao tiền cho người mở thầu. Vì vậy hình thức này vẫn có

chỗ đứng. Với hình thức này, tỷ lệ đặt cọc là 100%, do vậy không có dư nợ

quá hạn.

Bảo lãnh thanh toán

Hình thức này ra đời sớm hơn so với hình thức bảo lãnh dự thầu, bảo

lãnh thực hiện. Đặc điểm của hình thức này thường có 2 loại đặt cọc:

- Đặt cọc 100% đối với các doanh nghiệp mà không Ngân hàng không

đủ tin tưởng

- Đặt cọc 0-5% đối với các doanh nghiệp lớn, có khoản tiền lớn trong tài

khoản ở Ngân hàng ngoại thương Hà Nội.

Chính vì những nguyên nhân trên số dư nợ quá hạn hầu như không có.

Tuy nhiên nó cũng phản ánh một điều chưa thật hợp lý khi ngân hàng nhận

100% ký quỹ, thế chấp để đứng ra bảo lãnh thì lúc này các khâu như thẩm

định không phải tiến hành nữa. Như vậy nghiệp vụ bảo lãnh không còn mang



56



tính chất trợ cấp tín dụng của nó nữa. Do đó, đối với các doanh nghiệp có dự

án khả thi mà không đủ 100% tiền ký quỹ những vẫn muốn được Ngân hàng

bảo lãnh thì Ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được.

c. Nhận xét về nhóm bảo lãnh cho một trách nhiệm cụ thể

Việc mở rộng các hoạt động bảo lãnh đồng thời nâng cao chất lượng bảo

lãnh luôn được Ngân hàng đặt ra. Nhóm bảo lãnh cho một trách nhiệm cụ thể

Ngân hàng ngoại thương Hà Nội hiện nay được xem là nghiệp vụ mang tính

dịch vụ đơn thuần mà thiếu đi tính chất tín dụng của nó. Nhiệm vụ trước mắt

của Ngân hàng là thực hiện những thay đổi nhằm hoàn thiện nhóm bảo lãnh

này theo hướng tăng cường sức cạnh tranh và mở rộng nhằm thỏa mãn nhu

cầu của khách hàng. Con số dư nợ của nhóm bảo lãnh có xu hướng gia tăng

trong những gần đây.Tuy nhiên Ngân hàng cần có những biện pháp thúc đẩy

sự tăng trưởng của nhóm bảo lãnh này. Tóm lại, qua sự phân tích từng nhóm

bảo lãnh ở trên, chỉ có hai nhóm bảo lãnh chính là thực sự hoạt động và phát

triển ở Ngân hàng ngoại thương Hà Nội.

Bảng 2.6 Cơ cấu dư nợ cuối năm



TT



Các khoản



1



Vay thương mại



2



Bảo lãnh cho một trách

nhiệm cụ thể

Tổng



2001



2002



2003



2004



2005



74.8%



70.5%



64.6%



55.8%



66.6%



25.2%



29.5%



35.4%



44.2%



33.4%



100%



100%



100%



100%



100%



Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội Năm 2005



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

×