Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 104 trang )
81
triển trong môi trường cạnh tranh thì ngân hàng ngoại thương Hà Nội cũng
như các ngân hàng thương mại khác của Việt Nam cần nâng cao chất lượng
của các dịch vụ ngân hàng, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh trong ngoại
thương, đồng thời cần phải thực hiện nhiều biện pháp kết hợp để hoàn thiện
và phát triển hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương để đáp ứng nhu cầu bảo
lãnh của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Các biện pháp hoàn thiện
và phát triển hoạt động bảo lãnh của NHNT Hà Nội gồm:
3.2.1.1 Nhóm các biện pháp tổ chức và tác nghiệp
Một là, xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thích hợp
trong từng thời kỳ.
Trên cơ sở đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước trong từng thời kỳ, dưới sự chỉ đạo của NHNN, NHNT Hà Nội phải xây
dựng cho mình một kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh dài hạn và hàng
năm mang tính khả thi.
Việc xác định tư tưởng, quan điểm về sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh
là rất quan trọng, nó phải chỉ ra được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh
cũng như cơ cấu định lượng của các loại hình. Quan điểm này cần thể hiện
việc tiếp tục tăng trưởng hay tạm thời thu hẹp hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh
trong mỗi thời kỳ. Việc xác định đúng sẽ tạo ra sự đoàn kết, thống nhất mọi
nguồn lực trong ngân hàng để thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
Cuối cùng và cũng là điểm hết sức quan trọng là các giải pháp nhằm
thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Các nguồn lực phải tương xứng, phải có một cơ
cấu bộ máy tổ chức hợp lý, một đội ngũ cán bộ có thể đảm đương được nhiệm
vụ. Như vậy, việc lập kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phải mang tính
khả thi. Đó sẽ là điều kiện quan trọng đảm bảo nâng cao chất lượng của
nghiệp vụ này.
82
Hai là, hoàn thiện công tác tổ chức, đào tạo cán bộ để nâng cao uy tín
của ngân hàng.
Những doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thương trường,
phát triển với tốc độ cao và bền vững, ngoài các yếu tố thuận lợi khách quan có
thể có, doanh nghiệp đó chắc chắn phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi,
có tầm nhìn xa, năng động; đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, có nhiệt tình,
trách nhiệm cao, đáp ứng đòi hỏi của thị trường.
Để công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên
môn, vừa phục vụ yêu cầu hoạt động kinh doanh trước mắt, vừa chủ động chuẩn
bị cán bộ cho những năm tới khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập đầy đủ với khu
vực và trên thế giới. NHNT Hà Nội cần tập trung vào những vấn đề sau:
- Cần sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo hướng chuyên môn
hoá.
Có như vậy, ngân hàng mới tạo được các chuyên gia, cán bộ chuyên sâu về
những mặt nghiệp vụ, nhất là những nghiệp vụ đặc thù. Trên cơ sở tiêu chuẩn
hoá đội ngũ cán bộ kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ
đúng đối tượng, hiệu quả hơn. Đặc biệt trong hoạt động bảo lãnh đòi hỏi trình độ
tinh thông nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ, các luật và quy tắc áp dụng, một mặt
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động giao dịch với các đối tác nước ngoài.
Mặt khác giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro không lường trước trong môi
trường kinh doanh ngày càng phức tạp.
- Đào tạo cán bộ trên cơ sở sử dụng cán bộ và thực hiện quy hoạch cán bộ.
Được đào tạo gắn liền với nhiệm vụ đang làm sẽ đem lại hiệu quả cao nhất.
Vì vậy, bên cạnh các kế hoạch kinh doanh, tài chính.. . hàng năm ngân hàng
cũng cần có kế hoạch đào tạo để chủ động trong đào tạo, đào tạo sát với yêu cầu
trước mắt và chuẩn bị cán bộ cho những năm tới. Mạnh dạn sử dụng, bồi dưỡng
83
những cán bộ trẻ có năng lực đặc biệt trong lĩnh vực mới đòi hỏi sự nhanh nhạy
và óc sáng tạo, bởi đây chính là lực lượng quyết định cho sự mở rộng và phát
triển của ngân hàng.
- Đào tạo cán bộ theo hướng đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Trong công
tác đào tạo ngân hàng cần thiết phải thực hiện đa dạng hoá phù hợp với nhu cầu
của từng mặt nghiệp vụ. Vừa đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, vừa đảm
bảo hoạt động kinh doanh bình thường đồng thời tiết giảm những chi phí trung
gian không cần thiết, tập trung nhiều nhất kinh phí cho đào tạo. Có thể đào tạo
tại ngân hàng hoặc thông qua các lớp đào tạo trong và ngoài nước. Có thể chọn
một số cán bộ tuổi đời còn trẻ, có triển vọng gửi đi đào tạo ngắn hạn, dài hạn ở
nước ngoài; tổ chức các đoàn cán bộ đi khảo sát, thực tập tại ngân hàng nước
ngoài bằng kinh phí đào tạo của ngân hàng mình hoặc tranh thủ sự tài trợ của
ngân hàng nước ngoài. Chỉ có đào tạo theo sự đa đạng hoá các loại hình mới
phát huy được hết nội lực của mỗi cán bộ công nhân viên.
Đầu tư cho đào tạo là đầu tư chiều sâu của ngân hàng. Quan tâm đến công
tác đào tạo chính là quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh trong tương lai
bởi con người là yếu tố quyết định của mọi thành công. Đặc biệt, trong nền kinh
tế thị trường mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, trình độ, kỹ năng của đội
ngũ cán bộ công nhân viên quyết định thành công của ngân hàng.
Ba là, nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu xin bảo lãnh và quản
lý các khoản bảo lãnh
- Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu xin bảo lãnh
Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thì công tác thẩm định dự án được
xem là yếu tố quan trọng nhất, yếu tố tiên quyết khi ra quyết định bảo lãnh. Các
cán bộ tín dụng phải đảm bảo quy trình và nội dung thẩm định dự án đầu tư theo
cơ chế tín dụng hiện hành. Đây là yếu tố quyết định trước khi cấp bảo lãnh. Vì
84
nếu xảy ra trường hợp ngân hàng phải thanh toán hộ thì món bảo lãnh trở thành
món vay bắt buộc và được coi là khoản nợ quá hạn, trong khi đó số tiền bảo lãnh
chỉ được ngân hàng hạch toán ngoại bảng, nợ quá hạn xuất hiện sẽ tác động tiêu
cực đến nguồn vốn kinh doanh và chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Hơn nữa, biện pháp này còn có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược mở
rộng đối tượng khách hàng. Với những khách hàng mới chưa có quan hệ giao
dịch tín nhiệm qua ngân hàng thì năng lực thẩm định dự án, thẩm định về khách
hàng sẽ là tiêu chuẩn ra quyết định có cấp bảo lãnh hay không.
Để thực hiện quy trình này một cách hiệu quả, NHNT Hà Nội nên xây
dựng cho mình một hệ thống các chỉ tiêu định lượng làm cơ sở đánh giá, phân
loại khách hàng và làm tốt công tác thu thập, xử lý thông tin từ nhiều nguồn khác
nhau để so sánh, đối chiếu, đảm bảo tính chính xác về nguồn thông tin thu thập
được, đánh giá các thông tin đó, từ đó quyết định đồng ý hay từ chối cấp bảo
lãnh. Việc thẩm định trước bảo lãnh nên tập trung vào hai vấn đề như: Hiệu quả
phương án sản xuất kinh doanh; Khả năng tài chính và tài sản thế chấp.
- Quản lý các khoản bảo lãnh
Sau khi phê duyệt một khoản bảo lãnh, cán bộ ngân hàng cần xuống tận cơ
sở để kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc sử dụng và quản lý vốn vay đã được
bảo lãnh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho các khoản bảo lãnh
của ngân hàng là sự gian lận để chiếm dụng vốn của ngân hàng hoặc sử dụng
vốn sai mục đích. Đây là hiện tượng khá phổ biến những năm 1994 – 1996 với
rất nhiều vụ án lớn liên quan đến khoản bảo lãnh mở L/C trả chậm của ngân
hàng. Ngân hàng cần kiểm tra kịp thời hoặc trong trường hợp khách hàng gặp
khó khăn thì ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng hoặc cùng họ giải quyết
tháo gỡ. Trong QĐ 283 cũng đã đề cập đến vấn đề kiểm tra, giám sát sau bảo
85
lãnh (điều 19), đây vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của NHNT Hà Nội để có thể
hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
Bốn là, thực hiện phân tán rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là một loại hình hoạt động có độ rủi ro
cao. Khi người được bảo lãnh không có khả năng hoặc cố tình không thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với người nhận bảo lãnh thì ngân hàng phải
đứng ra trả thay. Cũng như bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào khác, ngân
hàng cũng phải hoạt động an toàn, và có lãi để tồn tại và phát triển, vì vậy cần
phải tìm ra các biện pháp để giảm bớt tối đa các rủi ro do hoạt động bảo lãnh gây
ra. Các biện pháp cụ thể có thể sử dụng như:
- Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh là một hình thức nhằm phân tán rủi ro.
Hiện nay ngân hàng mới chủ yếu tập trung vào loại hình bảo lãnh vay vốn mà
đây là loại bảo lãnh có độ rủi ro cao nhất, trong thời gian tới ngân hàng nên tư
vấn cho khách hàng cũng như chuẩn bị những điều kiện cần thiết để phát triển
các loại hình bảo lãnh khác ít rủi ro hơn như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh bảo hành sản phẩm...do ở các loại bảo lãnh này ngân hàng chỉ phải bảo lãnh
khoảng 15% giá trị hợp đồng cơ sở nên nếu có bất trắc thì cũng không ảnh
hưởng nhiều đến nguồn vốn của mình.
- Có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để chuyển bớt rủi ro cho một
đối tác khác. Chẳng hạn bán đi một quyền trả nợ, có nghĩa là ngân hàng sẽ bán
quyền bảo lãnh cho một ngân hàng khác với mức phí thấp hơn.
- Tham gia đồng bảo lãnh với một số ngân hàng khác. Hiện nay đồng bảo
lãnh ở Việt Nam đã được quy định khá cụ thể ở trong QĐ 283(điều 14) cũng quy
định khá chi tiết. Đồng bảo lãnh vừa có thể chia sẻ rủi ro lại vừa giúp cho các
khách hàng của mình thực hiện được các thương vụ có giá trị lớn.
Năm là, xác định thời hạn bảo lãnh trước khi nhận bảo lãnh
86
Theo QĐ 283(điều 24), thời hạn bảo lãnh được xác định căn cứ vào thời
hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh của khách hàng đối với bên nhận bảo lãnh,
trừ trường hợp có các thoả thuận hoặc cam kết khác có nghĩa là ngân hàng
không được quyền chọn thời hạn bảo lãnh. Và như đã trình bày ở phần trước
việc xác định thời hạn bảo lãnh không chính xác của khách hàng có thể dẫn đến
những rủi ro rất lớn. Do vậy ngân hàng nên tiến hành đàm phán với bên thụ
hưởng bảo lãnh để xác định được một khoảng thời gian hợp lý, phù hợp với tình
hình luân chuyển vốn của khách hàng, đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng
khi bảo lãnh đến hạn.
Sáu là, xác định hạn mức bảo lãnh thường xuyên
Hiện nay ở hầu hết các ngân hàng, hạn mức bảo lãnh hoàn toàn do các chi
nhánh tính toán dựa trên tình hình hoạt động bảo lãnh năm trước và tỷ lệ tăng
trưởng dự tính của nền kinh tế, sau đó đưa lên NHTM trung ương xem xét. Cách
làm này hoàn toàn chưa mang tính khoa học mà mang tính chủ quan của cán bộ
nghiệp vụ nên rất dễ có sai sót, đồng thời dễ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc của
ngân hàng nhà nước. Vì vậy, việc xác định hạn mức bảo lãnh là vô cùng quan
trọng. Một mặt, cần phải dựa trên những cơ sở thống nhất và rõ ràng, mặt khác
phải linh hoạt trong một số trường hợp để đạt hiệu quả cao nhất.
NHNT Hà Nội có thể nghiên cứu để xây dựng một hạn mức bảo lãnh
thường xuyên cho các khách hàng. Bảo lãnh cũng là một loại hình tín dụng đặc
biệt tuy không áp dụng được các nguyên tắc của tín dụng cho bảo lãnh nhưng
các sản phẩm đều có quá trình hoàn thiện và phát triển. Trong công tác tín dụng,
chúng ta xây dựng được một hạn mức thường xuyên cho khách hàng nhằm hạn
chế các thủ tục và chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng. Như vậy, trong bảo
lãnh ta cũng hoàn toàn có thể tìm ra phương pháp xác định một hạn mức bảo
lãnh thường xuyên để hoàn thiện công tác bảo lãnh của ngân hàng.
87
3.2.1.2 Nhóm các biện pháp hỗ trợ
Một là, ứng dụng Marketing ngân hàng vào hoạt động bảo lãnh
Bằng các chính sách ưu đãi, ưu tiên về tỷ lệ ký quỹ, thủ tục tài sản thế
chấp tạo điều kiện cấp bảo lãnh nhanh chóng cho doanh nghiệp khi có yêu
cầu để giữ vững các khách hàng truyền thống. Đối với NHNT Hà Nội, các
khách hàng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài
quốc doanh chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu khách hàng, đặc biệt là
trong hoạt động bảo lãnh . Do vậy trong thời gian tới cần có các biện pháp
chủ động để có thể phục vụ được đối tượng khách hàng này.
Để có thể giữ vững và mở rộng thị trường cần thiết phải thực hiện các
công việc cụ thể sau:
Nghiên cứu thị trường: nghiên cứu tập tính thái độ, đặc biệt là động cơ
của khách hàng trong việc chọn lựa sử dụng dịch vụ và nhu cầu của khách
hàng đối với nghiệp vụ bảo lãnh. Thu thập thông tin một cách có hệ thống,
thường xuyên tập trung vào “Hồ sơ bảo lãnh” cùng với “Hồ sơ tín dụng” của
khách hàng. Tiếp nhận những ý kiến phản hồi từ khách hàng để có sự thay đổi
hợp lý thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ. Đồng thời có những cải tiến trong
quy trình nghiệp vụ, khuyến khích nhân viên có những đề xuất để hoạt động
bảo lãnh luôn thích ứng với nhu cầu của thị trường.
Mặt khác ngân hàng phải nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán
quốc tế, kinh doanh ngoại tệ để có thể phục vụ tốt khách hàng trong giao dịch
với đối tác nước ngoài đồng thời luôn đảm bảo đủ nguồn ngoại tệ để đề phòng
trường hợp phải thanh toán thay cho khách hàng khi đến hạn, điều này sẽ giúp
ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh tạo vị thế mới trên thương trường.
Công tác Marketing liên quan đến toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ
trong ngân hàng. ứng dụng marketing trong ngân hàng là một đòi hỏi cần thiết
88
hiện nay, nó sẽ đảm bảo nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp ngân hàng đứng
vững trên thương trường. Cơ sở để xây dựng kế hoạch hoá marketing là
nhiệm vụ, mục tiêu và các nguồn lực của ngân hàng. Vị trí quan trọng nhất
trong hoạt động marketing là việc kế hoạch hoá các chiến lược khách hàng,
chiến lược giá cả, chiến lược sản phẩm, chiến lược giao tiếp khuyếch trương.
Chiến lược khách hàng
Khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh đó là cầu về sản phẩm,
ngân hàng cung cấp sản phẩm sao cho thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng.
Mở rộng đối tượng khách hàng
Nhìn vào thực tế hiện nay, các doanh nghiệp mới được thành lập ngày
một tăng. Có nhiều doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có mối quan hệ tốt với bạn
hàng là các đối tác nước ngoài và đây chính là đối tượng khách hàng đầy tiềm
năng cho ngân hàng. Song số lượng các doanh nghiệp này có nhu cầu bảo
lãnh chưa cao, vì vậy ngân hàng cần kích thích, khuyến khích họ có những
suy nghĩ lớn hơn trong kinh doanh, chuyên môn, quan điểm, phát triển hệ
thống tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giải pháp này phối kết hợp chặt
chẽ với giải pháp nâng cao năng lực đánh giá thẩm định của cán bộ ngân
hàng, giải pháp mang tính vĩ mô của cơ quan quản lý Nhà nước, NHNN về
quy định pháp luật; ổn định môi trường kinh tế tạo sự bình đẳng thực sự giữa
các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ bảo lãnh của
ngân hàng nói riêng và trong kinh doanh nói chung.
Ngân hàng cần chủ động có chính sách với từng đối tượng khách hàng
chứ không nên để đề phòng rủi ro mà hạn chế một cách vô lối như hiện nay.
Chiến lược khách hàng của NHNT Hà Nội về cơ bản là: linh hoạt về lãi
suất, có chính sách ưu đãi riêng đối với khách hàng chiến lược, luôn bám sát
khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ.
89
Vì vậy, NHNT Hà Nội nên coi mỗi nhân viên cũng chính là mỗi khách
hàng của mình. Thông qua họ có thể nắm bắt được nhu cầu về sản phẩm của
ngân hàng trên thị trường, từ đó ngân hàng có kế hoạch mở rộng hoạt động,
quan hệ chặt chẽ, hiểu biết giữa ngân hàng- doanh nghiệp- các mối quan hệ
đối tác. Các mối quan hệ này tuỳ thuộc vào tổng chi phí vốn vay, chất lượng
dịch vụ và công tác tiếp cận khách hàng. Từ đó ngân hàng có thể dễ dàng
phân loại khách hàng của mình theo từng nhóm đối tượng, theo thị phần . . .
Tuy nhiên, khách hàng của ngân hàng là đa dạng, ở đoạn thị trường nào cũng
có từ dễ tính đến khó tính nên đồng thời việc tháo gỡ những ràng buộc, soạn
thảo các cơ chế linh hoạt để mở rộng hướng vào các khách hàng dễ tính (mở
rộng khách hàng và cung cấp dịch vụ theo chiều rộng), ngân hàng phải cải
tiến chất lượng dịch vụ để thâm nhập vào nhóm khách hàng khó tính. Riêng
đối với hoạt động bảo lãnh, ngân hàng phải chủ động sàng lọc các doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả, khuyến khích họ có suy nghĩ lớn hơn trong
kinh doanh, đồng thời ngân hàng phải luôn đa dạng hoá các loại hình bảo
lãnh, đa dạng hoá khách hàng xin bảo lãnh, tiết giảm linh hoạt các thủ tục
hành chính tránh sự rườm rà, vì đây chính là điểm mấu chốt để thu hút khách
hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chiến lược sản phẩm
Sản phẩm ở đây chính là dịch vụ bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp. Ngân
hàng phải da dạng hoá các hình thức cấp bảo lãnh. Ngoài các hình thức bảo
lãnh truyền thống như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh thanh toán . . . ngân hàng cần chú trọng hình thức bảo lãnh bảo hành sản
phẩm, bảo lãnh phát hành chứng khoán ra thị trường nước ngoài.
Bên cạnh đó hình thức đồng bảo lãnh là giải pháp cho ngân hàng đáp
ứng nhu cầu bảo lãnh những công trình lớn mà giá trị bảo lãnh vượt quá hạn
90
mức được uỷ quyền, đồng thời hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Việc phát triển
hình thức đồng bảo lãnh đòi hỏi ngân hàng thiết lập những mối quan hệ hợp
tác tin cậy, đôi bên cùng có lợi với các ngân hàng khác.
Hơn nữa, do khả năng đáp ứng các loại hình bảo lãnh giữa các ngân
hàng là không có sự khác biệt lớn lắm nên chất lượng dịch vụ bảo lãnh đóng
vai trò quan trọng trong chiến lược sản phẩm. Chất lượng dịch vụ ở đây là sự
thuận tiện, chính xác, kịp thời trong quy trình nghiệp vụ, giải quyết đầy đủ
các yêu cầu của khách hàng với mức phí hợp lý. Cạnh tranh bằng chất lượng
dịch vụ là sự cạnh tranh phi giá. Ở mức độ nào đó, các nhân tố bên ngoài như
sự giúp đỡ tận tình, tôn trọng . . . của nhân viên đối với khách hàng nhiều khi
tạo nên ấn tượng, nhận xét tích cực khi đánh giá chất lượng sản phẩm cuả
khách hàng.
Chiến lược giá cả
Hiện nay NHNT Hà Nội thực hiện chính sách áp dụng phí cố định
2%/năm trên số tiền bảo lãnh theo quy định của QĐ 283 ngoại trừ một số
khách hàng truyền thống. Nhưng ấn định mức phí cố định như vậy sẽ gây khó
khăn cho ngân hàng khi muốn thực hiện chính sách giá cả linh hoạt. Bởi vì
cũng như lãi suất cho vay, mức phí bảo lãnh cũng cần có sự thay đổi phụ
thuộc vào đối tượng khách hàng, độ rủi ro nhằm thu hút khách hàng và tạo cơ
hội cạnh tranh về giá so với các ngân hàng khác.
Chiến lược giao tiếp khuyếch trương
Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình
để đứng ra đảm bảo cho các giao dịch. Do vậy, ngân hàng cần tạo dựng một
hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong lòng khách hàng.
Đội ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong chính sách giao tiếp với khách hàng,
91
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng là một
phương pháp tuyên truyền quảng cáo hiệu quả về hình ảnh của ngân hàng.
Chiến lược khuyếch trương giao tiếp thực hiện thông qua: bán hàng của
cá nhân, kích thích tiêu thụ, tuyên truyền, quảng cáo. Để mở rộng hoạt động
của ngân hàng thì việc tuyên truyền quảng cáo về các dịch vụ trong đó có dịch
vụ bảo lãnh trên các báo, tạp chí, phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết.
Trong tuyên truyền quảng cáo phải chú ý đến các đối tượng khách hàng
của ngân hàng, các nhóm khách hàng thường xuyên và khách hàng mục tiêu
để lựa chọn các phương pháp, các phương tiện phù hợp để khách hàng dễ
dàng và thuận tiện tiếp cận. Sau cùng ngân hàng nên xác định ngân sách dành
cho nhiệm vụ này bởi vì những hoạt động trên đều đòi hỏi một số chi phí nhất
định.
Mở rộng quan hệ hợp tác với ngân hàng khác để đẩy mạnh hoạt động
đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh
NHNT Hà Nội đã xây dựng cho mình một quy chế bảo lãnh dựa trên cơ
sở quy chế bảo lãnh ban hành kèm theo Quyết định 283/2000/QĐ - NHNN14
của Thống đốc NHNN quy định tổng dư nợ bảo lãnh cho một khách hàng lớn
nhất không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Vì vậy việc thực hiện các
khoản bảo lãnh có giá trị lớn rất khó khăn. Vấn đề đặt ra là phát triển hình
thức đồng bảo lãnh, vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các dự án lớn khi
mà khả năng về nguồn vốn là có hạn, vừa phân tán bớt rủi ro cho các ngân
hàng cùng tham gia do có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh, khả năng và hỗ
trợ cho nhau giữa các ngân hàng. Để thực hiện được điều này ngân hàng phải
đề ra cho mình một kế hoạch cụ thể, có thể bao gồm các biện pháp sau: