1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

3 ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TRONG NGOẠI THƢƠNG CỦA NHNT HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 104 trang )


70



- Ngân hàng ngoại thương Hà Nội không chỉ cung cấp các khoản bảo

lãnh thuần tuý mà còn là nhà tư vấn đắc lực giúp cho các nhà xuất khẩu, nhập

khẩu đảm bảo được quyền lợi của mình trước các đối tác nước ngoài vốn rất

nhiều kinh nghiệm thương trường.

Nếu nhìn trên bình diện nền kinh tế, hoạt động bảo lãnh trong ngoại

thương của các NHNT Hà Nội đã mang lại rất nhiều lợi ích:

Một là, đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển, nhập khẩu hàng hoá,

máy móc, thiết bị từ đó phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước.

Hai là, thông qua việc mua hàng trả chậm, doanh nghiệp nhập khẩu có

thời gian quay vòng vốn nhanh, tạo thêm thu nhập, tạo thêm công ăn việc làm

cho người lao động, đồng thời các ngân hàng cũng thu được phí bảo lãnh.

Ngoài ra trong quá trình bán hàng thu hồi vốn, doanh nghiệp sẽ có một số dư

tiền gửi nhất định tại NHNT Hà Nội để chuẩn bị thanh toán cho khách hàng

nước ngoài. Nhờ đó ngân hàng sẽ có điều kiện sử dụng nguồn tiền gửi này

vào hoạt động kinh doanh, tăng thêm thu nhập.

Hơn nữa, khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng sẽ góp phần vào

sự kiềm chế lạm phát. Bởi vì trong suốt quá trình bảo lãnh, doanh nghiệp

cũng như ngân hàng không bỏ vốn vào đầu tư mà lại có nguồn nguyên liệu,

máy móc, thiết bị, hàng hóa để sản xuất kinh doanh. Từ đó làm giảm mức

tăng về cầu, tạo thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần tạo thế cân bằng cung

cầu và bình ổn giá cả trên thị trường . . .

Có được các kết quả trên là nhờ các nguyên nhân sau:

Nguyên nhân khách quan:

Một là, nền kinh tế nước ta đã bắt đầu quen dần với cơ chế mới, cơ chế

của nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo hướng thị trường có sự điều



71



tiết của nhà nước. Các thành phần kinh tế không ngừng phát triển và hoàn

thiện trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, từng bước thiết lập mối

quan hệ với bạn hàng trên khắp thế giới. Việt Nam trở thành thành viên của

rất nhiều tổ chức ở khu vực cũng như quốc tế do vậy đã được các tổ chức đó

giành cho nhiều ưu đãi, trong đó có những khoản tín dụng được cấp với lãi

suất thấp.Trong những năm gần đây nền kinh tế thế giới xảy ra rất nhiều biến

động, một phần bắt nguồn từ các nguyên nhân chính trị trong khi đó Việt

Nam được coi là có môi trường đầu tư an toàn do vậy đã thu hút nguồn vốn

đầu tư từ nước ngoài chảy vào cũng như nhiều doanh nhân nước ngoài muốn

thiết lập quan hệ thương mại với các doanh nghiệp Việt Nam.

Hai là, nền kinh tế thế giới với những biến động cũng đã giúp cho các

doanh nghiệp Việt Nam thận trọng hơn trong công việc kinh doanh, họ lựa

chọn đối tác kỹ càng hơn và do đó nhu cầu về bảo lãnh cũng tăng cao. Ngân

hàng ngoại thương Hà Nội không chỉ phát hành bảo lãnh cho các chủ thể là

người Việt Nam mà còn có các khách hàng là người nước ngoài có quan hệ

với các doanh nghiệp Việt Nam.

Ba là, các cơ quan chức năng cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp lý

có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công tác bảo lãnh, đặc biệt là bảo

lãnh trong ngoại thương giúp cho NHNT Hà Nội thuận lợi hơn trong việc

triển khai nghiệp vụ này.

Những nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, NHNT Hà Nội đều coi việc phát triển nghiệp vụ bảo lãnh

trong ngoại thương là nằm trong danh mục đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ do

vậy đã chú trọng tới công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực, chuẩn bị các điều

kiện về nguồn lực cần thiết khi thực hiện nghiệp vụ này.



72



Thứ hai, những rủi ro đã xảy ra do tắc trách trong công tác bảo lãnh ở

giai đoạn những năm 1996 khiến NHNT Hà Nội thận trọng khi cấp bảo lãnh

từ khâu tư vấn, thẩm định tới giám sát sau bảo lãnh.

Thứ ba, ngân hàng đã thiết lập được một mạng lưới ngân hàng đại

lý, văn phòng đại diện rộng lớn trên khắp các thị trường quan trọng của

thế giới do vậy công tác theo dõi giám sát các khách hàng nước ngoài

thuận lợi hơn, ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra do thiếu thông tin.

Nhờ những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà việc thực hiện

nghiệp vụ bảo lãnh trong thời gian vừa qua đã đạt được những kết quả nhất

định. Tuy nhiên hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương NHNT Hà Nội vẫn

còn rất nhiều những tồn tại ở không chỉ riêng một ngân hàng, đòi hỏi phải có

những biện pháp hữu hiệu để giải quyết.



2.3.2 Những khó khăn và tồn tại

2.3.2.1 Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ

Nghiệp vụ bảo lãnh trong ngoại thương của ngân hàng hiện nay chưa

có một hệ thống luật chung mà thường được thực hiện theo luật quốc gia và

tập quán của ngân hàng phát hành. Khi NHNT Hà Nội cấp bảo lãnh cho các

đối tác nước ngoài thường phải dẫn chiếu theo luật lệ nước chủ thể đó do vậy

gây ra nhiều bất lợi cho ngân hàng cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. Bên

cạnh đó ở trong nước chưa có luật bảo lãnh mà chỉ được quy định thành một

điều khoản trong Bộ luật dân sự, việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của ngân

hàng được dẫn chiếu theo các văn bản dưới luật như các Nghị định của Chính

phủ, các quy định của Ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính . . . mà các văn bản

này thường xuyên thay đổi, các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ gây rất nhiều

khó khăn trong thực hiện.



73



- Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh

nghiệp thực hiện chế độ hạch toán thống kê kịp thời do đó gây khó khăn cho

ngân hàng khi xem xét tình hình tài chính của khách hàng trước khi quyết

định bảo lãnh cũng như quá trình giám sát sau khi cấp bảo lãnh.

- Vấn đề thiếu đồng bộ của các chính sách về thương mại, chính sách

tiền tệ của nhà nước trong những năm qua ảnh hưởng đến hiệu quả bảo lãnh

của các ngân hàng. Chưa quy rõ trách nhiệm của các cơ quan về kết quả thẩm

định chất lượng, giá cả của hàng nhập khẩu. Do đó khi xảy ra rủi ro từ kết quả

thẩm định đem lại thì các cơ quan này chỉ phải gánh chịu một phần trách

nhiệm hành chính còn ngân hàng thì phải gánh chịu toàn bộ rủi ro.

- Sự không đồng nhất giữa thông lệ quốc tế với luật trong nước là một

khó khăn đối với ngân hàng ngoại thương Hà Nội trong việc thực hiện các

cam kết bảo lãnh trong ngoại thương với đối tác nước ngoài.

2.3.2.2 Hạn chế từ phía các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp XNK đôi khi chưa nắm chắc quy định về bảo lãnh,

trong một số trường hợp phát sinh nhu cầu về bảo lãnh vay vốn, thì doanh

nghiệp mới tới ngân hàng xin bảo lãnh. Trường hợp này gây khó khăn trong

việc thẩm định khách hàng, bởi nếu thẩm định kỹ lưỡng thì không đảm bảo

thời gian cho doanh nghiệp rút vốn vì có thể lỡ thời gian về vụ mùa, chi phí

cầu cảng, bốc dỡ, nhưng nếu xem xét qua loa thì rủi ro cho ngân hàng nhận

bảo lãnh sẽ rất cao.

Bên cạnh đó, mặc dù số lượng các doanh nghiệp tham gia kinh doanh

xuất nhập khẩu ngày càng tăng nhưng năng lực tài chính còn rất thấp. Phần

lớn tài sản cố định là nhà xưởng, máy móc thiết bị đã cũ, vốn lưu động phục

vụ sản xuất kinh doanh hầu hết là vốn vay ngân hàng và chiếm dụng lẫn nhau.

Chính vì vậy diễn ra một nghịch lý là trong khi nhu cầu bảo lãnh hiện nay của



74



các doanh nghiệp đều rất lớn song giá trị tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng

thì lại không đủ. Hơn nữa, bản thân năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lý

sản xuất kinh doanh của các cán bộ trong doanh nghiệp cũng chưa đáp ứng

đòi hỏi thực tiễn của hoạt động sản xuất thương mại hiện nay. Đây chính là lý

do tại sao trong những năm gần đây, dù ngân hàng đã rất cố gắng nhưng

nghiệp vụ bảo lãnh trong ngoại thương vẫn chưa phát triển tương xứng với

tiềm năng của nó tại Việt Nam.

2.3.2.3 Điều kiện về tài sản thế chấp còn khắt khe và khó khăn trong việc

định giá tài sản thế chấp

Mặc dù nhà nước đã có các văn bản quy định và hướng dẫn về việc thực

hiện thế chấp tài sản nhưng cho đến nay vấn đề này còn nhiều nổi cộm, cản

trở hoạt động của ngân hàng và khách hàng.

Về phía doanh nghiệp:

Các doanh nghiệp nhà nước: thực chất tài sản đủ tiêu chuẩn để đem thế

chấp rất ít, đa phần là quá cũ kỹ và đã khấu hao gần hết, không có giấy tờ về

quyền sử dụng đất, về đăng ký tài sản...Nếu từ chối cấp bảo lãnh thì sẽ gây

nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách phát triển kinh tế đất nước, đến

công ăn việc làm của người lao động. Bởi vì như vậy sẽ làm mất cơ hội kinh

doanh của doanh nghiệp. Nhưng nếu đứng ra bảo lãnh thì rủi ro sẽ xảy ra,

doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, ngân hàng phải thanh toán bảo lãnh mà

doanh nghiệp lại không có khả năng tài chính để hoàn trả cho ngân hàng. Lúc

đó theo quy chế bảo lãnh thì ngân hàng có quyền phát mại tài sản nhưng đây

là tài sản nhà nước nên ngân hàng sẽ thực sự gặp khó khăn khi phải tự mình

đến các cơ quan pháp luật để tổ chức phát mại, đấu giá tài sản thế chấp.

Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: thông thường giá trị tài sản

của họ tương đối nhỏ khó có thể được bảo lãnh cho những hợp đồng lớn mà



75



trong ngoại thương giá trị các hợp đồng cơ sở thường có giá trị tương đối cao

do vậy NHNT Hà Nội thường phải bỏ qua đối tượng khách hàng này.

Về phía ngân hàng ngoại thƣơng Hà Nội:

Khi một tài sản thế chấp đã được định giá thì ngân hàng sẽ tính toán mức

bảo lãnh mà doanh nghiệp có thể được hưởng sao cho tổng tất cả các khoản

bảo lãnh đó không vượt quá 70% mức giá trị tài sản thế chấp đã được xác

định. Tuy nhiên, nhiều khoản bảo lãnh có thời hạn tương đối dài (có thể từ 2 –

5 năm), trong thời gian đó tài sản cố định liên tục bị hao mòn hữu hình và hao

mòn vô hình. Do đó, khi có rủi ro xảy ra thì tài sản thế chấp đã không thể

đóng vai trò làm vật đảm bảo với đầy đủ ý nghĩa của nó. Đó là rủi ro tiềm ẩn

đối với NHNT Hà Nội

2.3.2.4 Cơ chế hoạt động bảo lãnh còn phức tạp

Hiện nay một doanh nghiệp muốn được bảo lãnh phải trải qua rất nhiều

khâu rườm rà và tốn nhiều thời gian. Kể từ khi doanh nghiệp nộp đơn xin bảo

lãnh NHNT Hà Nội cho tới khi phê duyệt phải trải qua nhiều thủ tục. Vấn đề

này ảnh hưởng không ít đến hiệu quả hoạt động của các dự án sản xuất kinh

doanh và đến kế hoạch hoạt động của các doanh nghiệp.

Đối với những bảo lãnh ngắn hạn có số tiền không lớn mà phải trải qua

nhiều thủ tục rắc rối như vậy sẽ khó tránh khỏi việc bỏ lỡ các cơ hội kinh

doanh của doanh nghiệp. Đồng thời cũng làm giảm sức cạnh tranh và hiệu

quả hoạt động của NHNT Hà Nội. Và đôi khi làm cho các doanh nghiệp ngại

khi xin bảo lãnh từ ngân hàng và chuyển sang hình thức bảo đảm hợp đồng

khác.

2.3.2.5 Hình thức bảo lãnh còn đơn điệu:



76



Mặc dù QĐ 283 đã đề cập đến khá nhiều loại hình bảo lãnh nhưng thực

tế các ngân hàng mới chủ yếu thực hiện loại hình bảo lãnh vay vốn, còn các

hình thức bảo lãnh khác mới chỉ mang tính hình thức. Đồng bảo lãnh mới chỉ

được thực hiện theo từng món và trực tiếp, chưa có loại hình bảo lãnh gián

tiếp hay bảo lãnh đối ứng . . . Một phần là do nhu cầu của các khách hàng

chưa xuất hiện, cũng như uy tín của NHNT Hà Nội ở ngoài nước còn chưa

cao.

2.3.2.6 Việc tính toán thời hạn bảo lãnh chưa chính xác, không phù hợp

với thời hạn hiệu lực hợp đồng:

Nhiều khi tính toán thời hạn không chính xác, các bên thường yêu cầu

bảo lãnh với thời hạn ngắn hơn so với tiến độ thực hiện hợp đồng, nên trong

thời hạn bảo lãnh bên được bảo lãnh khó có thể thực hiện đầy đủ cam kết.

Chẳng hạn như trong bảo lãnh vay vốn hay hoàn trả tiền ứng trước, đôi khi

khách hàng chưa thu hồi được vốn do chưa hết vòng quay mà đã đến hạn trả

nợ, do đó khó có khả năng trả tiền đúng hạn. Những vấn đề trên dẫn đến nguy

cơ khách hàng sẽ vi phạm cam kết và bắt buộc ngân hàng phải trả thay.

2.3.2.7 Mất cân đối về cơ cấu khách hàng bảo lãnh:

Do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn có nhiều hạn chế về tài sản

đảm bảo nên NHNT Hà Nội rất hạn chế cấp bảo lãnh cho đối tượng khách

hàng này. Hình thức bảo lãnh qua công ty mẹ để đảm bảo cho những khoản

vay là một hình thức thường được các ngân hàng nước ngoài áp dụng khi cho

vay các doanh nghiệp này. Trong lúc đó, do yếu trong khâu nắm thông tin nên

các NHNT Hà Nội nhiều khi đã phải “chịu trận” trong việc mở rộng tín dụng

bằng hình thức cho vay này

2.3.2.8 Sự bất cập về trình độ của cán bộ ngân hàng



77



Ngày nay, kinh doanh ngân hàng không chỉ chịu sức ép từ đối thủ cạnh

tranh, từ các khách hàng mà ngay cả từ bản thân ngân hàng. Trong giai đoạn

đổi mới và trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, các nhà quản lý, các cán

bộ ngân hàng phải có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ đồng thời phải có

kiến thức cơ bản về nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau nhằm hỗ trợ cho nghiệp

vụ chuyên môn. Song trên thực tế, do bảo lãnh là một nghiệp vụ mới với các

NHNT Hà Nội nên ngân hàng còn thiếu các cán bộ có năng lực, trình độ, kinh

nghiệm thoả mãn các điều kiện trên. Nhiều cán bộ còn quan niệm rằng bảo

lãnh chỉ đơn giản là khi khách hàng có nhu cầu, ngân hàng phát hành thư,

không phải xuất vốn nhưng thu được phí dịch vụ. Quan niệm này rất nguy

hiểm vì như vậy sẽ dẫn tới sự chủ quan trong việc cấp bảo lãnh của cán bộ

thực hiện việc bảo lãnh, họ không thể thấy được rủi ro tiềm ẩn trong bảo lãnh

từ đó không có sự chủ động trong mọi tình huống xấu có thể xảy ra.

2.3.2.9 Ứng dụng công nghệ thông tin trong giao dịch bảo lãnh còn hạn

chế

Xu hướng toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang

và đã đặt ra những thách thức to lớn đối với ngành kinh tế ở nước ta nói

chung và ngành ngân hàng nói riêng. Trước thách thức mới trong tiến trình

hội nhập, NHNT Hà Nội đang không ngừng đổi mới các mặt hoạt động theo

hướng đẩy mạnh sự hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, trong đó việc ứng

dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực hoạt động được coi là những giải

pháp hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập. Nhưng thực tế việc

thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chưa được hỗ trợ bởi công nghệ nên việc

đối chiếu, cập nhật giữa các khâu không nhanh gọn, khớp đúng và mất nhiều

thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. Điều này hạn chế rất lớn tới hiệu

quả hoạt động của các ngân hàng.



78



CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN

HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TRONG NGOẠI THƢƠNG

CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƢƠNG HÀ NỘI

3.1 ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TRONG NGOẠI

THƢƠNG TẠI VIỆT NAM



3.1.1 Định hƣớng phát triển kinh tế xã hội nói chung và trong ngoại

thƣơng nói riêng

Định hƣớng chung: Mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ

yếu phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001-2005 là tiếp tục chính sách mở cửa

và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển. Tuyên truyền và hỗ trợ

cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp với

tiến trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước

và quốc tế, mở rộng thị phần trên những thị trường truyền thống, khai thông

và mở rộng thị trường mới.

Về cơ chế xuất nhập khẩu: Triển khai thực hiện nghiêm túc cơ chế

quản lý xuất nhập khẩu năm 2001-2005. Vận hành Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất

khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, thực hiện các biện pháp hỗ trợ về thông

tin, tham dự triển lãm, hội chợ. Giảm giá đối với một số dịch vụ hỗ trợ xuất

khẩu mà Nhà nước còn Quản lý giá. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đặc

biệt là các thủ tục hải quan, giảm chi phí giao dịch xuất khẩu.

Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung và định hướng

phát triển nghiệp vụ xuất nhập khẩu nói riêng có thể thấy rằng thách thức lớn

nhất của NHNT Hà Nội phải đối mặt trong thời gian tới là làm sao cơ cấu lại

ngân hàng đủ vững mạnh để duy trì được sự phát triển ổn định và bền vững

cho nền kinh tế trong quá trình cạnh tranh và hội nhập, sớm tiếp cận, thích



79



nghi với nền kinh tế thị trường. Cũng dựa trên những quan điểm chung đó,

định hướng đặt ra đối với hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương nhằm tạo ra

một ngân hàng thực sự năng động, nhạy bén, sáng tạo nhằm thích nghi được

với môi trường mới

3.1.2 Định hƣớng phát triển hoạt động bảo lãnh trong ngoại thƣơng

trong thời gian tới.

 Tạo ra một hệ thống dịch vụ ngân hàng thuận lợi

Cải cách cơ cấu hệ thống dịch vụ NHNT Hà Nội phải được tiến hành



một cách quyết liệt và đồng bộ. Việc quy hoạch lại cơ cấu hệ thống dịch vụ

của ngân hàng trong thời gian tới chủ yếu dựa vào nhu cầu khách quan của sự

phát triển nền kinh tế. Bảo lãnh trong ngoại thương cũng phải mang tính cạnh

tranh một cách hợp pháp và bình đẳng. Cùng với đó NHNN phải tạo ra một

khuôn khổ pháp lý sao cho trong đó các NHNT Hà Nội thực hiện được nghiệp

vụ bảo lãnh đúng luật pháp và hiệu quả.

 Hoàn thiện các chế độ chính sách về bảo lãnh

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định và hướng dẫn về

nghiệp vụ kinh doanh, hạch toán kế toán để tạo điều kiện chủ động và phát

huy cao nhất khả năng hoạt động quản lý và kinh doanh của NHNT Hà Nội.

Hoàn thiện các văn bản về cơ chế hoạt động, phối hợp tổ chức công tác,

quản lý viên chức, quản lý hành chính và quản trị cơ quan.

Thiết lập các chính sách cơ chế về bảo lãnh nhất quán đồng bộ hơn,

thông thoáng hơn, phù hợp hơn với tập quán hoạt động ngân hàng thế giới, áp

dụng cho các hoạt động ngân hàng ở nước ta.

 Xây dựng chiến lược dài hạn để định hướng cho hoạt động bảo

lãnh trong ngoại thương của NHNT Hà Nội



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

×