1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học tự nhiên >

CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG THU HÚT NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TỈNH BÌNH PHƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 101 trang )


huyện, thị với 111 xã, phường, thị trấn trong đó có 18 xã đặc biệt khó khăn, tỷ lệ

hộ nghèo 4%. Tỷ lệ dân số thành thị và nông thôn là 16,78% và 83,22%.

Bình Phước có điều kiện tự nhiên thuận lợi: đất đai màu mỡ phù hợp với

phát triển các loại cây công nghiệp như cao su, điều, tiêu, cà phê, ca cao; tài

nguyên khoán sản phong phú với 20 loại khoáng sản có tiềm năng lớn như:

quặng bôxít, đá vôi, đất sét, đá quý... Diện tích đất có rừng chiếm 48,37% so với

diện tích đất lâm nghiệp và bằng 24,82% diện tích tự nhiên của tỉnh đóng vai trò

quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái để tạo điều kiện tốt cho việc

thực hiện chiến lược kinh tế-xã hội của vùng Đông Nam bộ nói chung và các

tỉnh lân cận nói riêng.

Hình 2.1: Bản đồ ranh giới hành chính tỉnh Bình Phước



34



Nguồn nhân lực của tỉnh tham gia đủ các hoạt động từ kinh tế, văn hóa,

chính trị, xã hội. Về số lượng, tính đến 31/12/2010 dân số đang ở độ tuổi lao

động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) của tỉnh là 575.100 người,

chiếm tỷ lệ 57,66% so với tổng dân số; ngoài tuổi lao động 318.253 người,

chiếm tỷ lệ 42,34%. Trong 575.100 người trong độ tuổi lao động có 3.246 người

chưa có việc làm thường xuyên; 571.854 người có việc làm ổn định (chiếm

64,01% so với tổng dân số), trong đó: (i) Đang tham gia làm việc thường xuyên

trong các ngành kinh tế 516.823 người, chiếm 90,38% (làm trong lĩnh vực nông,

lâm, thủy sản 359.774 người chiếm 62,91%; lĩnh vực công nghiệp, xây dựng

50.583 người chiếm 8,85%; lĩnh vực dịch vụ 106,466 người chiếm 18,60%); (ii)

Đang làm việc trong khu vực nhà nước 55.031 người, chiếm 9,62%.

Bảng 2.2: Lao động đang làm việc phân theo cấp quản lý

TT



Phân theo cấp

quản lý



Năm (1.000 người)

2000



2005



2008



2009



2010



1



Trung ương



20,126



22,324



26,198



25,016



25,625



2



Địa phương



288,799



369,376



440,502



472,755



491,198



Tổng số



308,925



391,700



466,700



497,771



516,832



(Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê các năm 2006, 2007, 2008, 2009 và

2010 – Cục Thống kê tỉnh Bình Phước)

Bảng 2.3: Lao động đang làm việc phân theo ngành kinh tế

Năm (1.000 người)



Các ngành kinh tế



TT



2000



2005



2008



2009



2010



270,3



297,1



337,8



347,4



359,8



1



Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản



2



Khai khoáng



0,4



0,5



0,6



0,6



0,6



3



Công nghiệp chế biến, chế tạo



9,2



18,3



25,9



29,5



31,0



4



Sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước

nóng, hơi nước và điều hòa không khí



-



0,3



1,4



1,9



2,0



5



Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử

lý rác thải



-



-



0,4



0,4



0,4



6



Xây dựng



3,0



7,5



13,1



15,7,



16,5



35



7



Buôn bán và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô

tô, xe máy, xe có động cơ khác



8,2



18,9



31,2



36,8



38,2



8



Vận tải kho bãi



2,9



5,1



7,3



8,2



8,5



9



Dịch vụ lưu trú và ăn uống



2,7



7,1



12,7



15,5



16,1



10



Thông tin và truyền thông



0,1



0,5



1,1



1,4



1,4



11



Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo

hiểm



0,3



0,7



1,1



1,3



1,3



12



Hoạt động kinh doanh bất động sản



0,1



0,1



0,2



0,2



0,2



13



Hoạt động chuyên môn, KH&CN



-



0,4



0,8



1,0



1,0



14



Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ



-



0,3



0,5



0,5



0,5



15



Hoạt động của ĐCSVN, tổ chức chính

trị-xã hội, quản lý nhà nước, an ninhquốc phòng; Bảo đảm xã hội bắt buộc



2,9



5,6



8,8



10,3



10,8



16



Giáo dục và đào tạo



5,7



9,7



13,4



14,9



15,5



17



Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội



1,1



2,3



3,6



4,2



4,4



18



Nghệ thuật, vui chơi và giải trí



0,1



0,6



1,3



1,8



1,9



19



Hoạt động dịch vụ khác



2,0



3,8



5,5



6,3



6,6



308,9



391,7



466,7



497,9



516,7



Tổng số



(Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê các năm 2006, 2007, 2008, 2009 và

2010 – Cục Thống kê tỉnh Bình Phước)

So với quy mô dân số thì lực lượng lao động của tỉnh là rất dồi dào, đạt

ngưỡng cơ cấu dân số vàng.

Về chất lượng, trong 571.854 người đang hoạt động tại các ngành kinh tế

và khu vực nhà nước có 411.735 người (chiếm tỷ lệ 72% lực lượng lao động)

chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ thuật lao động; chỉ có 160.120

người, (chiếm tỷ lệ 28% lực lượng lao động) được đào tạo chuyên môn, nghiệp

vụ, kỹ thuật từ sơ cấp nghề trở lên, cụ thể: Đại học, sau đại học 12.069 người;

cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng nghề 6.127 người; trung cấp chuyên nghiệp

và trung cấp nghề 15.995 người, còn lại là công nhân kỹ thuật và sơ cấp nghề.

Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được

yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, nhất là trong điều kiện mở cửa hội nhập hiện

nay.

36



Kinh tế của tỉnh liên tục đạt tốc độ tăng trưởng khá: tăng trưởng GDP của

tỉnh đạt 13,2%, GDP bình quân đầu người năm 2010 là 1.069 USD (giai đoạn

2001-2005 tăng trưởng GDP của tỉnh đạt 13,84%, GDP bình quân đầu người

năm 2005 là 470 USD). Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực, đúng

hướng. Trong cơ cấu kinh tế đến năm 2010 so với năm 2005 thì tỉ trọng nông

nghiệp giảm 9,51%, tỉ trọng công nghiệp tăng 7,41%, tỉ trọng dịch vụ tăng 2,1%.

Đến năm 2010 cơ cấu kinh tế của tỉnh đạt: nông nghiệp 47,15% - công nghiệp

25,45% - dịch vụ 27,40%. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chưa theo kịp với cơ cấu

của vùng và bình quân cả nước.

Bảng 2.4: So sánh cơ cấu kinh tế đến năm 2010

Cơ cấu kinh tế



Cả nước (%)



Vùng Đông Nam bộ (%)



Bình Phước (%)



Nông nghiệp



21,3



5,1



47,15



Công nghiệp



40,3



56,2



25,45



Dịch vụ



38,4



38,7



27,4



(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2010 – Cục Thống kê tỉnh Bình Phước)

2.1.2. Hiện trạng nhân lực KH&CN tỉnh Bình Phước

* Đánh giá về nhân lực KH&CN trên địa bàn tỉnh: Như đã đề cập ở

Chương 1 của Luận văn này, nhân lực KH&CN được hiểu theo nghĩa là những

người có trình độ từ Cao đẳng trở lên trong lực lượng nghiên cứu chuyên nghiệp,

lực lượng vừa nghiên cứu vừa tham gia giảng dạy - đào tạo và lực lượng vừa

nghiên cứu vừa quản lý từ các ban, ngành, sở, các phòng - ban khoa học ở

trường và các Trung tâm dịch vụ KH&CN trên địa bàn tỉnh Bình Phước.

Theo số liệu điều tra, thống kê đến tháng 7/2007, tổng số người có trình độ

cao đẳng, đại học trở lên trên địa bàn tỉnh Bình Phước là 12.077 người/khoảng

850.000 dân, chiếm 1,42% dân số. Phần lớn lực lượng này đang làm việc trong

các cơ quan nhà nước; tham gia công tác giảng dạy, y tế, hoạt động văn hoá nghệ thuật, kinh doanh, sản xuất, dịch vụ (tại các cơ quan hành chính sự nghiệp

chiếm tỉ lệ 80,9%, các doanh nghiệp chỉ chiếm tỉ lệ 19,1%). Đến 31/12/2010, con

37



số này tăng lên khoảng 18.196 người, trong đó: Đại học, sau đại học 12.069

người; cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng nghề 6.127 người. Tuy nhiên, hiện

vẫn chưa có số liệu thống kê tổng thể nguồn nhân lực KH&CN của tỉnh phân

theo trình độ đào tạo (tiến sỹ, thạc sỹ, đại học, cao đẳng), theo độ tuổi, giới tính,

quê quán, chuyên ngành đào tạo, phân cấp quản lý mà chỉ có số liệu về thực

trạng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức nêu trong Chương trình đột phá về

“Đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực” được Tỉnh ủy Bình Phước ban

hành ngày 02 tháng 8 năm 2011. Theo đó tính đến 31/12/2010, tổng số cán bộ

công chức trong toàn tỉnh là 5.029 người. Trong đó: 64 người có trình độ sau đại

học chiếm tỷ lệ 1,27%; 1.963 người có trình độ đại học chiếm tỷ lệ 39,03%, 163

người có trình độ cao đẳng chiếm tỷ lệ 3,24%.

Có thể nói, nhân lực KH&CN hiện nay là lực lượng chủ chốt của đội ngũ

trí thức trên địa bàn tỉnh. Bằng vốn tri thức và những hiểu biết thực tiễn của

mình, đội ngũ trí thức của tỉnh đã tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các

chương trình, đề án phát triển kinh tế-xã hội, các chính sách về chuyển đổi cơ

cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính họ là những người

trực tiếp tham gia thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở vùng đồng bào

dân tộc ít người. “Những đóng góp của đội ngũ trí thức thể hiện trên nhiều

phương diện nhưng nổi bật nhất vẫn là những hoạt động: nghiên cứu và ứng

dụng khoa học - kỹ thuật; sáng tạo văn học - nghệ thuật; đào tạo nhân lực, nâng

cao dân trí, cải thiện chất lượng cuộc sống… góp phần quan trọng vào quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Nhiều trí thức đang làm việc trong các

doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, một số người đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất

(công ty, xí nghiệp, nhà xưởng, khu du lịch,…) và tạo công ăn việc làm cho nhiều

người dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Trên lĩnh vực KH&CN

phục vụ sản xuất và đời sống, nhiều đề tài khoa học đã được đội ngũ trí thức

trong tỉnh chủ động hoặc phối hợp với các Viện, Trường Đại học nghiên cứu

thành công. Những đề tài đó đã và đang được chuyển giao, ứng dụng vào thực

38



tiển sản xuất và đời sống, mang lại hiệu quả thiết thực. Nổi bật là đề tài Thực

trạng và giải pháp về vấn đề di dân tự do trên địa bàn tỉnh Bình Phước; đề tài

Nghiên cứu việc trồng cây Ca cao xen dưới tán cây Điều đã khẳng định cây ca

cao thích nghi tốt với khí hậu, thổ nhưỡng của tỉnh; đề tài Nghiên cứu sử dụng

gỗ cây Điều sản xuất ván ghép thanh và ván dăm tại tỉnh Bình Phước thực hiện

thành công đã được áp dụng sản xuất tại Công ty TNHH Đồng Phú và Công ty

cổ phần Phúc Thịnh. Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật và phòng trừ sâu bệnh đã góp

phần nâng cao năng xuất cây Điều (từ 0,4 tấn/ha năm 2000 lên 1,3 tấn/ha năm

2004 và năm 2008, ở Phước Long, có nơi đạt năng suất từ 1,8-2,3 tấn/ha ).

Trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã xây dựng Đề án ứng dụng và phát triển

công nghệ thông tin tỉnh Bình Phước giai đoạn 2006-2010, trong đó có Dự án

phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin; Triển khai chương trình đưa

công nghệ thông tin về các xã vùng sâu, vùng xa; Dự án đào tạo kỹ thuật viên tin

học cho cán bộ công chức tỉnh… ”[30;3].

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển KH&CN ngày càng cao trong giai

đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước hiện nay và trước những đòi

hỏi của nền kinh tế tri thức sắp tới thì những kết quả đạt được trên đây còn rất

hạn chế. Những đóng góp của đội ngũ trí thức tỉnh Bình Phước còn ở mức khiêm

tốn. Thành quả của hoạt động KH&CN đạt được trong thời gian qua thể hiện

mức tập trung chất xám chưa cao; công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội

trong lĩnh vực KH&CN mới đạt kết quả bước đầu; việc áp dụng kết quả nghiên

cứu khoa học vào sản xuất và đời sống chưa nhiều: “Đầu tư cơ sở vật chất cho

nghiên cứu, triển khai các hoạt động và dự án còn thiếu và không đồng bộ, chưa

đủ sức đáp ứng nhu cầu phát triển. Cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức

hoạt động trong lĩnh vực KH&CN chưa được ban hành phù hợp và cụ thể hoá

kịp thời, do đó chưa thực sự kích thích, thúc đẩy và phát huy được tiềm lực trong

đội ngũ trí thức. Cơ chế, chính sách đó chưa đủ sức thuyết phục để động viên

được đội ngũ trí thức tích cực tham gia, đem hết tâm huyết, khả năng đóng góp

39



để xây dựng, phát triển cho tỉnh. Đặc biệt một số chính sách về thu hút nguồn

nhân lực đã được ban hành nhưng các quy định trong đó vẫn chưa hợp lý hoặc

chưa hấp dẫn để có thể thu hút nguồn chất xám về cho tỉnh”[30;4].

* Nguyên nhân khách quan

- Bình Phước là một tỉnh miền núi, nông nghiệp; có 41 dân tộc ít người

chiếm gần 20% dân số toàn tỉnh. Là tỉnh đô thị hóa thấp và là tỉnh thưa dân nhất

ở Vùng Đông Nam bộ với tỷ lệ dân số thành thị và nông thôn là 16,78% và

83,22%. Tỉ lệ dân di cư cao (từ khi tái lập tỉnh là trên 5% mỗi năm). Dân di cư

chủ yếu là những người dân nghèo, khó khăn về học hành và tiếp cận với những

tri thức mới. Hiện nay vẫn còn 18 xã đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo 4% (tỷ lệ

này năm 2005 là 9,9%). Chính vì những nguyên nhân đó nên mặt bằng dân trí

của tỉnh nói chung còn rất thấp và không đồng đều.

- Tỉnh tái lập từ 01/01/1997 với suất phát điểm rất thấp về kinh tế-xã hội,

điều này gây nên những khó khăn cho hoạt động của đội ngũ trí thức. Do khó

khăn về cơ sở vật chất mà nhiều trí thức không thể đóng góp hết năng lực, trí tuệ

của mình. Nhiều người phải nghiên cứu khoa học trong điều kiện thiếu phương

tiện, cơ sở vật chất cần thiết. Nhiều đề tài, nhiều dự án khoa học hứa hẹn sẽ đem

lại những lợi ích lớn nhưng không thể tiến hành vì thiếu kinh phí.

* Nguyên nhân chủ quan

- Chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh còn thấp, chỉ có 28% lao động được

đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật từ sơ cấp nghề trở lên (con số này vào

năm 2007 là 18,7%). Đây là một trở ngại lớn cho đội ngũ trí thức của tỉnh trong

việc truyền thụ những kiến thức hiện đại về khoa học-kỹ thuật và nâng cao trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động.

- Chất lượng đội ngũ trí thức của tỉnh vẫn còn thấp. Số trí thức có trình độ

chuyên môn cao chưa nhiều, chưa có những trí thức lớn đủ sức phát động phong

trào về KH&CN. Điều này khiến cho đội ngũ trí thức của tỉnh đông mà chưa

mạnh, chưa thể đáp ứng được những yêu cầu hiện nay về KH&CN.

40



- Chính sách thu hút, ưu đãi đối với nhân tài, trí thức của tỉnh thiếu đồng

bộ và chưa đủ sức hấp dẫn. Sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong quản

lý đào tạo, bồi dưỡng chưa chặt chẽ và nhất quán. Một số cán bộ, trí thức của

tỉnh được tỉnh cử đi đào tạo chuyên môn sâu, sau thời gian đào tạo đã xin chuyển

vùng công tác, không quay trở về công tác tại tỉnh. Điều này khiến cho tình trạng

thiếu chuyên gia ở các lĩnh vực phục vụ đời sống và sản xuất kéo dài, không giải

quyết được.

2.1.3. Quản lý các đề tài, dự án KH&CN; bố trí nhân lực KH&CN và lựa chọn

người chủ trì các nhiệm vụ KH&CN

* Quản lý các đề tài, dự án KH&CN: Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn

của Bộ Khoa học và Công nghệ, ngày 29/7/2008, UBND tỉnh đã ban hành các

Quyết định số 37/2008/QĐ-UBND về “Quy định quản lý và thực hiện việc tuyển

chọn, xét chọn, triển khai, nghiệm thu và ứng dụng nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh”,

Quyết định số 38/2008/QĐ-UBND về “Quy định quản lý và thực hiện việc tuyển

chọn, xét chọn, triển khai, nghiệm thu và ứng dụng đề tài KHXH&NV cấp tỉnh”

và ngày 10/6/2010 ban hành Quyết định số 45/2010/QĐ-UBND về “Quy chế

Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp cơ sở trên

địa bàn tỉnh Bình Phước”. Nội dung chính đề cập trong các quyết định này có thể

tóm tắt như sau:

- Các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh được hình thành: (i) Do UBND tỉnh chỉ

đạo thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc của địa phương; (ii) Do các

bộ, ngành Trung ương chỉ đạo phối hợp thực hiện để giải quyết vấn đề chung của

cả nước, của vùng và khu vực; (iii) Do các tổ chức và cá nhân (các sở, ban,

ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã, doanh nghiệp, các nhà khoa học độc

lập) đề xuất.

- Sở KH&CN là đầu mối quản lý nhiệm vụ KH&CN ở địa phương có

trách nhiệm: (i) Hướng dẫn tổ chức và cá nhân đề xuất nhiệm vụ KH&CN hàng

năm, 5 năm; thành lập và tổ chức hoạt động của các Tiểu ban tư vấn chuyên

41



ngành xét chọn nhiệm vụ KH&CN; tuyển chọn tổ chức hoặc cá nhân chủ trì thực

hiện nhiệm vụ KH&CN do UBND tỉnh trực tiếp chỉ đạo thực hiện; (ii) Tổng hợp

kết quả tuyển chọn nhiệm vụ KH&CN tại các Tiểu ban và tại cuộc họp của Hội

đồng KH&CN tỉnh, xây dựng Kế hoạch KH&CN hàng năm, 5 năm trình UBND

tỉnh xem xét, quyết định phê duyệt; (iii) Phê duyệt chủ nhiệm đề tài, dự án,

chương trình theo phân cấp của UBND tỉnh; (iv) Cấp kinh phí cho các nhiệm vụ

KH&CN theo tiến độ thực hiện; phối hợp với Sở Tài chính, các sở, ban, ngành,

UBND các huyện, thị xã có liên quan kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện các

nhiệm vụ KH&CN, thanh quyết toán tài chính với các chủ nhiệm đề tài, dự án,

chương trình; (v) Tổ chức nghiệm thu, tổng kết, công bố kết quả thực hiện nhiệm

vụ KH&CN, phối hợp với các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thị xã tổ

chức nhân rộng kết quả thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh.

- Các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã có trách đề xuất

và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh trong lĩnh vực được phân

cấp quản lý; đề xuất với UBND tỉnh những nhiệm vụ KH&CN cần tuyển chọn tổ

chức hoặc cá nhân thực hiện và phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ quản lý

việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh; tổ chức nhân rộng kết quả nghiên

cứu, triển khai, thử nghiệm sau kết luận của Hội nghị tổng kết hoặc Hội đồng

nghiệm thu.

- Các cơ quan chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh: (i) Chỉ đạo

việc đề xuất nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và thông qua Hội đồng KH&CN cùng

cấp trước khi đăng ký với Sở Khoa học và Công nghệ; (ii) Tổ chức triển khai áp

dụng kết quả đề tài vào sản xuất và đời sống sau khi đề tài được nghiệm thu;

thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về hiệu quả ứng dụng kết quả nghiên cứu 6

tháng 1 lần trong 2 năm đầu cho cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp và Sở Khoa

học và Công nghệ.

* Quy trình tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ

KH&CN được áp dụng như sau:

42



- Đối với nhiệm vụ KH&CN hình thành theo đề xuất của các tổ chức và cá

nhân: (i) Tổ chức hoặc cá nhân đề xuất nhiệm vụ KH&CN được đưa vào Kế

hoạch hoạt động KH&CN hàng năm sẽ được ưu tiên lựa chọn chủ trì thực hiện

nhiệm vụ KH&CN đó; (ii) Không giao nhiệm vụ KH&CN cho các tổ chức, cá

nhân không đủ khả năng thực hiện; không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

tiến độ các nội dung công việc đã được phê duyệt mà không có lý do chính đáng,

quyết toán và nộp kinh phí thu hồi của các nhiệm vụ KH&CN được giao năm

trước không đúng quy định; (iii) Các tổ chức và cá nhân chủ trì nhiệm vụ

KH&CN cấp tỉnh được phép giao cho các tổ chức và cá nhân khác có đủ điều

kiện về trang thiết bị, nhân lực, kinh nghiệm… tiến hành một phần công việc

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN đã được phê duyệt.

- Đối với nhiệm vụ KH&CN do UBND tỉnh hoặc các bộ, ngành trung

ương trực tiếp chỉ đạo thực hiện: (i) Sở Khoa học và Công nghệ tiến hành tuyển

chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH&CN do UBND tỉnh chỉ đạo; (ii)

Nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh có tính chất đặc biệt quan trọng hoặc có độ bảo mật

cao sẽ do UBND tỉnh tiến hành lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện theo phương

thức riêng; (iii) Ủy quyền cho Sở Khoa học và Công nghệ quyết định thành lập

Ban chủ nhiệm đề tài, dự án và chương trình KH&CN cấp tỉnh. Trường hợp đặc

biệt sẽ do UBND tỉnh trực tiếp chỉ định Chủ nhiệm đề tài, dự án hoặc chương

trình KH&CN.

* Bố trí nhân lực KH&CN tại tỉnh Bình Phước: Bố trí nhân lực là một

vấn đề hệ trọng trong công tác xây dựng, tổ chức dự án. Hiệu quả lao động của

nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào tính hợp lý và khoa học của cách phân bổ và bố

trí nhân lực trong cơ quan, đơn vị. Chính sách bố trí, giao nhiệm vụ cho người

lao động thể hiện khía cạnh biết dùng người của lãnh đạo, của tổ chức và của

một quốc gia. Theo các quy định thể hiện trong các văn bản nhà nước, việc tuyển

dụng phải dựa trên cơ sở nhu cầu, vị trí làm việc và tiêu chuẩn nghiệp vụ của

43



ngạch công chức tuyển vào, nghĩa là việc bố trí cũng phải đảm bảo thích hợp

giữa công việc và khả năng của người lao động.

“… Tỉnh còn thiếu đội ngũ trí thức có trình độ cao (những cán bộ khoa

học-kỹ thuật có tầm cỡ, uy tín; những chuyên gia giỏi về từng lĩnh vực: khoa

học, công nghệ, kỹ thuật, kinh doanh, nghề nghiệp...). Lực lượng trí thức hiện có

chưa được quy tụ, tập hợp tốt để phát huy sức mạnh trí tuệ tập thể, thực hiện

những hoạt động KH&CN ở mức cao, chuyên sâu. Lớp trí thức trẻ được đào tạo

căn bản nhưng vẫn chưa tạo được sự đột phá, sức bật cho phát triển KH&CN và

kinh tế-xã hội của tỉnh”[30; 4] Từ khi được tái lập đến nay, tỉnh chưa có một

cuộc điều tra, khảo sát nào về thực trạng bố trí nhân lực KH&CN tham gia

nghiên cứu khoa học trong các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp liên

quan đến hoạt động KH&CN. Một số kết quả khảo sát sơ bộ về vấn đề này sẽ

được tác giả đề cập ở Chương 3.

* Lựa chọn người chủ trì các nhiệm vụ KH&CN: Bên cạnh các điều

kiện về cơ chế chính sách, đãi ngộ cán bộ thì việc phân bổ các đề tài nghiên cứu

khoa học tại các đơn vị nghiên cứu khoa học trên địa bàn tỉnh Bình Phước có ảnh

hưởng đến việc bố trí hay lựa chọn người chủ trì các nhiệm vụ KH&CN. Kết quả

điều tra, khảo sát sẽ được tác giả đề cập ở chương 3

Việc giao nhiệm vụ chủ trì chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học tuân

thủ quy trình tuyển chọn đã nêu ở trên phần lớn dựa vào định hướng nghiên cứu

của đơn vị nhưng việc chọn người chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN (đề tài,

đề án, dự án) chủ yếu dựa vào uy tín và do quan hệ của chủ trì đề tài. Theo ông

Nguyễn Ngọc Lai, Trưởng phòng Quản lý khoa học-Sở Khoa học và Công nghệ

tỉnh Bình Phước cho biết: “Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Bình Phước có nhiều đề

tài khoa học mà người chủ trì ở vị trí hành chính, là cán bộ làm công tác kiêm

nhiệm. Họ là lãnh đạo các đơn vị đề xuất nhiệm vụ KH&CN nên thời gian dành

cho nghiên cứu khoa học rất thấp (khoảng 20% thời gian làm việc), thiếu chủ

động sáng tạo, do vậy chất lượng nghiên cứu không cao”. Như vậy, việc coi

44



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

×