Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 101 trang )
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về quản lý nhân lực theo dự án
1.1.1. Khái niệm về quản lý
Tùy theo cách tiếp cận người ta định nghĩa quản lý nhiều cách khác nhau.
- Từ điển Tiếng Việt: Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yều cầu
nhất định, là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yều cầu nhất định
[32;1308].
- Thuyết quản lý theo khoa học của F. W. Taylor (1856-1915), người Mỹ:
Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu
được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
- Theo M. P. Follet (1863-1933), người Mỹ, đại biểu nổi bật của trường
phái tâm lý-xã hội trong quản lý: Quản lý là phương thức để người lãnh đạo đạt
được mục tiêu của mình bằng người khác và thông qua người khác.
- Theo Hemry Fayol (1841-1925), quản lý hành chính là dự đoán và lập kế
hoạch, tổ chức điều khiển phối hợp với kiểm tra.
- Theo Cleester Irwing Barnard (1886-1961), quản lý là việc quản lý một
hệ thống tổ chức nhất định, có mục đích làm tăng sức mạnh tổ chức đó.
Tóm lại: Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, sử dụng một cách tốt nhất các tiềm năng,
các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong
điều kiện môi trường luôn biến động.
1.1.2. Khái niệm về nhân lực và quản trị nguồn nhân lực
Để hiểu khái niệm nhân lực, trước tiên cần tìm hiểu một cách khái quát về
nguồn lực. Nguồn lực được hiểu là toàn bộ các yếu tố vật chất lẫn tinh thần đã,
đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển của một quốc gia và trong những
điều kiện thích hợp, chính nó sẽ góp phần thúc đẩy quá trình cải tiến xã hội. Tất
cả các yếu tố (nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực) tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự
phát triển kinh tế-xã hội đều được coi là nguồn lực. Con người là một yếu tố của
12
nguồn lực đó, gọi là nguồn nhân lực. Nhờ sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
của nguồn nhân lực, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng và trở nên có ý
nghĩa, do đó nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Do có những điểm riêng mà nguồn nhân lực vừa là chủ thể quyết định sự
vận động và phát triển xã hội, vừa là khách thể của các quá trình kinh tế-xã hội
và là đối tượng mà xã hội phải hướng vào phục vụ. Là chủ thể, con người khai
thác và sử dụng các nguồn lực hiện có, đồng thời góp phần tạo ra các nguồn lực
mới. Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác cả về mặt trí
lực và thể lực. Điều đó có nghĩa là nếu nguồn lực khác chỉ là phương tiện của sự
phát triển xã hội, thì nguồn nhân lực vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của
chính sự phát triển xã hội. Vì vậy, khi xem xét về nguồn nhân lực đòi hỏi phải
nhìn nhận con người với tất cả hiện trạng, tiềm năng, đặc điểm và sức mạnh của
nó đối với sự phát triển xã hội cả về phương diện chủ thể và phương diện khách
thể.
Quản trị nguồn nhân lực là quá trình tác động thường xuyên, liên tục và có
tổ chức của chủ thể quản trị đến đối tượng quản trị nhằm phối hợp các hoạt động
giữa các bộ phận, các cá nhân, các nguồn lực lại với nhau để đạt đến mục tiêu
của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
1.1.3. Khái niệm dự án, các loại dự án, quản lý nhân lực theo dự án
* Khái niệm dự án: Có nhiều khái niệm khác nhau về dự án. Ở dạng sơ
đẳng nhất, dự án có thể được coi là một sáng kiến được đưa ra một cách hoàn
toàn chủ quan nhằm đáp ứng một nhu cầu trong một tình huống nhất định. Nhìn
tổng quan thì dự án là một quá trình gồm các công việc có liên quan với nhau,
được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện ràng buộc về
thời gian, nguồn lực và ngân sách. Nếu nhìn vào từng lĩnh vực cụ thể thì có
những quan niệm khác nhau về dự án, ví dụ: đối với doanh nghiệp KH&CN thì
dự án là quá trình nghiên cứu, ứng dụng một quy trình công nghệ nào đó; đối với
doanh nghiệp xây dựng thì dự án là các công trình nhà cửa, điện, cầu đường,
13
trường học, trạm xá; đối với doanh nghiệp phần mềm thì dự án là quá trình tìm
ra các phần mềm diệt virus, phần mềm kế toán, phần mềm quản lý.
Theo K. Johnson “Dự án là một công việc dự kiến trước mắt nhằm đạt
được những mục tiêu đã xác định, trong một khoảng thời gian cụ thể và với một
khoản kinh phí nhất định”.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng định nghĩa: Dự án là chuỗi những
hoạt động có liên quan lẫn nhau được lập ra nhằm đạt được một hoặc nhiều
mục tiêu cụ thể với các nguồn lực nhất định trong một thời hạn cụ thể [16;5].
Dù nhìn tổng quan hay nhìn từng lĩnh vực cụ thể, thì mỗi dự án đều có đặc
điểm: (i) Phải có một hoặc một số mục tiêu rõ ràng và là một quá trình tạo ra một
kết quả cụ thể; (ii) Có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc, được tạo thành
một chuỗi các hoạt động nhất thời, nghĩa là mỗi dự án đều có một chu kỳ hoạt
động.
Chu kỳ hoạt động của dự án gồm nhiều giai đoạn khác nhau: khởi đầu dự
án, triển khai dự án và kết thúc dự án.
Hình 1.1: Chu kỳ hoạt động của dự án
Chu kỳ hoạt động dự án xảy ra theo tiến trình chậm - nhanh - chậm
Chu trình quản lý dự án gồm có: (i) Xác định dự án; (ii) Thiết kế dự án;
(iii) Thẩm định dự án; (iv) Thực hiện dự án và (v) Đánh giá dự án.
14
Hình 1.2: Chu trình quản lý dự án
(Nguồn: TS.Nguyễn Phú Hùng (2008), Bài giảng môn Quản lý dự án
dành cho các lớp Cao học tại Trường Đại học KHXH&NV-ĐHQG Hà Nội)
* Các loại dự án: Có nhiều cách để phân loại dự án
- Theo quyền sở hữu thì có: tư nhân, liên doanh, hợp tác xã, nhà nước…
- Theo khu vực thì có: khu vực công (gắn với quy hoạch phát triển quốc
gia) hoặc khu vực tư (gắn với lợi nhuận mà nhà đầu tư mang lại)
- Theo nguồn tài trợ thì có: tài trợ trong nước, tài trợ từ nước ngoài…
- Theo lĩnh vực thì có: y tế, giáo dục, nông nghiệp, môi trường, khoa học
công nghệ, phát triển cộng đồng…
- Theo thời gian thì có: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
Có ba dạng dự án chính: đầu tư mới, mở rộng và thay thế
- Dự án đầu tư mới: Đầu tư mới trong lĩnh vực, địa bàn nhất định
- Dự án mở rộng: Đầu tư mở rộng sản xuất hay dịch vụ đã có từ trước (mở
rộng về quy mô, địa bàn)
- Dự án thay thế: Đầu tư thay thế một hoạt động sản xuất hay dịch vụ nào
đó đã có từ trước, song lợi suất không cao (do quá cũ hoặc hết khấu hao…). Ví
15
dụ: Dự án nhà máy mía đường ở Việt Nam chuyển sang trồng cao su ở những
vùng đất có thổ nhưỡng thích hợp sẽ mang lại lợi suất cao hơn, hiệu quả hơn.
Để đảm bảo cho dự án thực hiện thành công, cần phải quản lý dự án.
Quản lý dự án là một quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian,
nguồn lực và giám sát qúa trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án
hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi nguồn ngân sách được phê duyệt và đạt
được các yêu cầu đã định về mặt kỹ thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ, bằng
những phương pháp và điều kiện tốt nhất cho phép.
Một dự án được gọi là thành công khi nó được hoàn thành trong thời hạn
quy định, với chi phí cho phép, đạt kết qủa mong muốn trên cơ sở sử dụng nguồn
lực được giao một cách hiệu quả.
* Quản lý nhân lực theo dự án: Các chức năng quản lý dự án là chức
năng hoạch định, chức năng tổ chức và chức năng lãnh đạo, trong đó chức năng
tổ chức đặc biệt quan trọng quyết định thành công của dự án.
Tổ chức là một nhóm người được sắp xếp theo một trật tự nhất định để có
thể cùng phối hợp hoạt động với nhau nhằm đạt mục tiêu đề ra. Cấu trúc tổ chức
là một kiểu mẫu được đặt ra để phối hợp hoạt động giữa con người trong tổ
chức. Tổ chức dự án mang tính chất tạm thời, được tạo dựng lên trong một thời
hạn nhất định. Sau khi dự án hoàn thành thì tổ chức đó sẽ giải thể, do vậy, tổ
chức dự án không phải là một tổ chức ổn định không đổi. Tổ chức dự án là một
hệ thống tổ chức mở vì thường phải có sự trao đổi thông tin với môi trường bên
ngoài.
Có 3 loại cấu trúc tổ chức dự án: cấu trúc chức năng, cấu trúc dự án và cấu
trúc ma trận.
- Cấu trúc chức năng : Là loại tổ chức cơ học, thường gặp trong các tổ
chức máy móc như các Vụ ở các Bộ, các Phòng nghiên cứu ở các Viện, các Phân
xưởng trong nhà máy... Dự án được chia ra làm nhiều phần, được phân công tới
16
các bộ phận chức năng hoặc các nhóm trong bộ phận chức năng thích hợp và
được nhà quản lý chức năng cấp cao tổng hợp.
Hình 1.3: Sơ đồ kết cấu tổ chức dạng chức năng
- Cấu trúc dự án: Cấu trúc dự án là loại tổ chức hữu cơ tập hợp một số
nhân lực thực hiện một dự án, một chương trình, một công việc ... nằm ngoài khu
vực chức năng. Nhà quản lý phải chịu trách nhiệm quản lý một nhóm hoặc tổ
gồm những thành viên nòng cốt được chọn từ những bộ phận chức năng khác
nhau trên cơ sở làm việc toàn phần. Các nhà quản lý chức năng không có sự
tham gia chính thức.
Hình 1.4: Sơ đồ kết cấu tổ chức dạng dự án
17
- Cấu trúc ma trận: là loại hình tổ chức tích hợp cấu trúc chức năng và cấu
trúc dự án. Sự tích hợp đó thể hiện sự kết hợp hài hoà của tổ chức hình thức và
phi hình thức, là bước phát triển cao của tổ chức hữu cơ.
Hình 1.5: Sơ đồ kết cấu tổ chức dạng ma trận
Hiện nay, mô hình này được nhiều nhà tổ chức ưa thích vì là một loại hình
tổ chức hữu cơ hiện đại, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực.
Bảng 1.6. So sánh các hình thức cấu trúc tổ chức dự án
Ưu điểm
Nhược điểm
Cấu trúc - Chức năng rõ ràng
chức
- Hoạt động không bị trùng lặp
năng
- Phạm vi hoạt động hẹp
- Thiếu quan tâm khách
hàng
Cấu trúc - Có thể giám sát và phân phối nguồn - Thiếu sự trao đổi về
dự án
lực
thông tin giữa các dự án
- Chịu trách nhiệm với khách hàng
- Chi phí cao
Cấu trúc - Có thể chi phối nguồn lực
- Quan hệ báo cáo hai cấp
ma trận
- Có sự phối hợp tốt giữa các bộ - Cần có sự bình đẳng về
phận. Chuyên gia có thể tham gia vào quyền lực
tất cả các dự án, tạo điều kiện cho sự
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
- Chú trọng tới khách hàng
18
Ảnh hưởng nhất định tới sự thành công hay thất bại của dự án là những
người giữ một hoặc một vài vai trò đối với dự án gọi là tác nhân trong dự án. Họ
có thể là người quản lý dự án, các thành viên dự án, khách hàng hoặc chính phủ.
- Người quản lý dự án: là người chịu trách nhiệm quản lý dự án
- Các thành viên dự án: là các chuyên viên phân tích, thiết kế, kiểm
nghiệm, thử nghiệm, lập trình…
- Khách hàng: là người hoặc tổ chức “mua” sản phẩm của dự án để sử
dụng. Đại diện phía khách hàng là những người sử dụng và người ký hợp đồng
làm dự án. Mong muốn của khách hàng hoặc các nhà tài trợ sẽ là các yêu cầu
cho dự án.
- Chính phủ: là các cơ quan nhà nước kiểm soát hành chính và các hoạt
động của dự án.
1.2. Quản lý nhân lực KH&CN theo dự án
1.2.1. Khái niệm nhân lực KH&CN
Hiện nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân lực KH&CN. Ở Pháp,
thuật ngữ được dùng là nhân lực khoa học kỹ thuật, bao gồm các nghiên cứu
viên chuyên nghiệp, làm việc trong các cơ quan nghiên cứu và các nghiên cứu
viên, kỹ thuật viên làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và trong các
cơ quan dịch vụ nghiên cứu theo chế độ ký hợp đồng làm việc. Ở Mỹ, trong luật
KH&CN có ghi là đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ sư và kỹ thuật viên. Ở Trung
Quốc, đội ngũ làm công tác khoa học kỹ thuật gồm những người làm nghiên cứu
khoa học cơ bản, những người nghiên cứu kỹ thuật cao, những người làm nghiên
cứu hạn mục công trình lớn và những làm nghiên cứu hạn mục trọng điểm kinh
tế. Ở Việt Nam từ năm 1990 trở về trước, thường dùng thuật ngữ đội ngũ cán bộ
khoa học kỹ thuật nhưng gần đây, thuật ngữ cán bộ khoa học công nghệ hoặc
cán bộ KH&CN lại được dùng khá phổ biến. Việc chuẩn hóa và thống nhất khái
niệm nhân lực KH&CN cho phép thống kê về nhân lực KH&CN, giúp cho việc
hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN.
19
Theo UNESCO, nguồn nhân lực KH&CN là những người trực tiếp tham
gia vào hoạt động KH&CN trong một cơ quan, tổ chức và được trả lương hay
thù lao cho lao động của họ, bao gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên
và nhân lực phù trợ. Như vậy, UNESCO không phân biệt nhân lực KH&CN theo
bằng cấp mà phân biệt theo công việc đang làm.
Theo OECD, nguồn nhân lực KH&CN là những người đáp ứng được một
trong hai điều kiện sau: (i) Đã tốt nghiệp trường đào tạo trình độ nhất định về
một chuyên môn KH&CN (từ công nhân có bằng cấp tay nghề trở lên hay còn
gọi là trình độ 3 trong hệ giáo dục đào tạo); (ii) Không được đào tạo chính thức
nhưng làm một nghề trong lĩnh vực KH&CN mà đòi hỏi trình độ trên. Kỹ năng
tay nghề ở đây được đào tạo tại nơi làm việc.
Từ hai điều kiện trên, nhân lực KH&CN theo OECD bao gồm:
- Những người có bằng cấp trình độ tay nghề trở lên và làm việc hoặc
không làm việc trong lĩnh vực KH&CN, ví dụ: giáo sư đại học, tiến sĩ về kinh tế,
bác sĩ nha khoa làm việc tại phòng khám, chuyên gia đang thất nghiệp, nữ vận
động viên chuyên nghiệp và có bằng y học…
- Những người được coi là có trình độ tay nghề làm việc trong lĩnh vực
KH&CN nhưng không có bằng cấp, ví dụ: nhân viên lập trình máy tính, hoặc cán
bộ quản lý quầy hàng nhưng không có bằng cấp...
- Những người làm việc trong lĩnh vực R&D nhưng không đòi hỏi trình độ
cao, ví dụ: thư ký của cơ quan R&D, văn thư trong các cơ quan, trường Đại
học...
Như vậy, nguồn nhân lực KH&CN theo OECD được hiểu theo nghĩa rất
rộng, bao gồm cả nhân lực tiềm ẩn (tiềm năng/tiềm tàng) chứ không chỉ là những
người đang tham gia hoạt động KH&CN, để khi cần thiết có thể huy động nguồn
nhân lực tiềm ẩn này tham gia trực tiếp vào hoạt động KH&CN.
Trong luận văn này, tác giả chọn nhân lực KH&CN hiểu theo định nghĩa
của OECD, đó là “tập hợp những nhóm người tham gia vào các hoạt động
20
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với các chức năng: nghiên cứu
sáng tạo, giảng dạy, quản lý, khai thác sử dụng và tác nghiệp, góp phần tạo ra
tiến bộ của KH&CN, của sự phát triển sản xuất và xã hội”.
Theo định nghĩa trên, nhân lực KH&CN bao gồm: Lực lượng nghiên cứu
khoa học chuyên nghiệp, lực lượng giảng dạy được đào tạo bậc cao và lực lượng
quản lý khoa học ở các loại hình cơ quan khoa học. Cụ thể:
- Lực lượng nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp: Với chức năng nghiên
cứu sáng tạo, họ là những người có trình độ tương đối cao (tốt nghiệp đại học trở
lên). Họ khác nhau về trình độ, chức danh, chuyên môn và thường làm việc ở các
tổ chức nghiên cứu khoa học.
- Lực lượng giảng dạy được đào tạo bậc cao: Là những người có trình độ
từ đại học trở lên, làm công tác giảng dạy ở các học viện, nhà trường (cao đẳng,
đại học). Ngoài chuyên môn dạy học (nhà giáo chuyên nghiệp, các giáo sư, phó
giáo sư, giảng viên đại học), họ còn tham gia nghiên cứu khoa học, hướng dẫn
sinh viên, nghiên cứu sinh tham gia nghiên cứu khoa học.
- Lực lượng quản lý khoa học ở các loại hình cơ quan khoa học: Bao gồm
các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu làm công tác quản lý, điều hành các hoạt
động KH&CN ở các cơ quan quản lý từ các Bộ, ban, ngành, sở, viện nghiên cứu,
các phòng - ban khoa học ở trường, học viện và các trung tâm dịch vụ KH&CN.
Trong khuôn khổ Luận văn này, nhân lực KH&CN được giới hạn phạm vi
đối với các đối tượng là: lực lượng nghiên cứu chuyên nghiệp; lực lượng vừa
nghiên cứu vừa tham gia giảng dạy - đào tạo và lực lượng vừa nghiên cứu
vừa quản lý từ các ban, ngành, sở, các phòng - ban khoa học ở trường và
các Trung tâm dịch vụ KH&CN có trình độ từ Cao đẳng trở lên trên địa
bàn tỉnh Bình Phước.
1.2.2. Khái niệm dự án KH&CN
Tại Khoản 1 Điều 14 Chương III Nghị định số 81/2002/NĐ-CP ngày
17/10/2002 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết thi hành một số điều của
21
Luật Khoa học và Công nghệ thì khái niệm Nhiệm vụ KH&CN được hiểu “là
những vấn đề khoa học và công nghệ cần được giải quyết, được tổ chức thực
hiện dưới hình thức đề tài, dự án, chương trình khoa học và công nghệ”[8;7].
- Đề tài nghiên cứu khoa học: Là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa
học, được đặc trưng bởi một nhóm nghiên cứu (một nhiệm vụ nghiên cứu) và nội
dung chủ yếu hướng vào việc hoàn thiện và làm phong phú thêm hệ thống tri
thức khoa học. Đề tài KH&CN có nội dung chủ yếu nghiên cứu về một chủ đề
KH&CN, có thể độc lập hoặc thuộc dự án, chương trình KH&CN.
- Dự án sản xuất thử nghiệm: Là nhiệm vụ KH&CN nhằm ứng dụng kết
quả nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm để thử nghiệm các giải pháp,
phương pháp, mô hình quản lý kinh tế-xã hội hoặc sản xuất thử ở quy mô nhỏ
nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và
đời sống.
- Dự án KH&CN: Là nhiệm vụ KH&CN, bao gồm một số đề tài nghiên
cứu khoa học hoặc một số dự án sản xuất thử nghiệm gắn kết nhau, được tiến
hành trong một thời gian nhất định với địa điểm được xác định. Dự án KH&CN
có thể độc lập hoặc thuộc chương trình KH&CN.
- Chương trình KH&CN: Là một nhóm các đề tài, dự án KH&CN hoặc
bao gồm cả đề tài, dự án KH&CN tập hợp theo một mục đích xác định nhằm
thực hiện mục tiêu phát triển KH&CN cụ thể hoặc ứng dụng trong thực tiễn.
- Chuyên đề khoa học: Là một vấn đề khoa học cần giải quyết trong quá
trình nghiên cứu một đề tài nhằm xác định những luận điểm khoa học và chứng
minh những luận điểm này bằng những luận cứ khoa học, bao gồm luận cứ lý
thuyết (cơ sở lý luận) và luận cứ thực tế (là kết quả khảo sát, điều tra, thí nghiệm,
thực nghiệm do chính tác giả thực hiện hoặc trích dẫn công trình của các đồng
nghiệp khác). Chuyên đề khoa học được phân thành 2 loại: (i) Chuyên đề nghiên
cứu lý thuyết gồm các hoạt động thu thập và xử lý các thông tin, tư liệu đã có,
các luận điểm khoa học đã được chứng minh là đúng, được khai thác từ các tài
22