1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học tự nhiên >

CHƯƠNG 3. CHÍNH SÁCH THU HÚT NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THEO DỰ ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 101 trang )


KH&CN hiện chiếm trong khoảng từ 25% đến 35% trong tổng số việc làm tại

các nước OECD và tốc độ tăng trưởng việc làm thuộc chuyên môn này đang tiếp

tục vượt quá tốc độ tăng trưởng việc làm tổng thể.

Ở Australia, lương cho đội ngũ cán bộ then chốt được nhà nước đảm bảo,

ngoài ra các cơ quan nghiên cứu (Viện, Trường) dùng nguồn tài chính từ các đề

tài đấu thầu cạnh tranh để chi trả cho hoạt động nghiên cứu, vận hành bộ máy,

chi phí hành chính… và phần còn lại được dùng thưởng thêm vào lương cán bộ.

Chính phủ có chính sách để các Viện, Trường được hưởng lợi ngày càng nhiều

từ tiền sáng chế và bản quyền và thu thuế khoa học công nghệ từ các cơ sở sản

xuất để đầu tư lại cho cơ quan nghiên cứu. Do phải sống từ nguồn thu thuế trực

tiếp của người sử dụng công nghệ nên các Viện, Trường phải rất chú ý đến yêu

cầu của thực tiễn sản xuất, nhờ đó mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và nghiên

cứu được hình thành một cách tự nhiên. Định kỳ sáu tháng một lần, các cấp quản

lý đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới và tính thành điểm rõ ràng

để làm căn cứ đề bạt, sa thải, tăng lương…Ngoài ra, hàng năm, các cán bộ đồng

nghiệp trong Viện, Trường có thể góp ý cho nhau thông qua một loạt phiếu điều

tra. Kết quả được gửi lại chính đương sự nhằm mục đích góp ý xây dựng một

cách khách quan, không dùng làm căn cứ để đánh giá, đối xử với cán bộ.

3.1.2. Singapore, Thái Lan, Trung Quốc

* Singapore: Quốc gia này coi nguồn tài nguyên giàu có nhất của đất

nước là con người, nhất là những người có trình độ cao. Chính phủ Singapore

thực sự quan tâm đến đội ngũ các nhà khoa học, kỹ sư làm việc trong khu vực

R&D, kể cả những người làm nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật cho họ. Hàng năm có

khoảng 10% số người tốt nghiệp các ngành khoa học, kỹ thuật được bổ sung vào

các đơn vị R&D trong các trường đại học.

Ở Singapore, tiền lương nói chung rất cao, đứng thứ 2 Châu Á, chỉ sau

Nhật bản. Từ năm 1981, Hội đồng lương quốc gia đã đề xuất những quy định

mới về mức tăng lương. Theo đó, bội số lương khởi điểm lớn hơn 3 lần lương tối

66



thiểu, mức tăng lương bình quân là 20% cho từng giai đoạn, 3 năm 1 lần. Mục

đích của việc làm này là nhằm thay đổi giá trị công lao động, kích thích các cơ

quan tuyển chọn, thu hút người có trình độ cao, chuyên gia giỏi. Là quốc đảo đa

dân tộc, có trình độ học vấn rất cao, Chính phủ Singapore coi trọng tiếng Anh và

tiếng mẹ đẻ, ngoài ra còn khuyến khích học thêm ngoại ngữ thứ 3; họ thực sự

quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ các nhà khoa học và kỹ sư làm việc trong các

khu vực R&D. Ngân sách được sử dụng cho việc trang bị các thiết bị nghiên cứu

hiện đại ở các cơ quan R&D chủ yếu cấp cho các trường đại học. Nhiều học

bổng được cấp cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, bao gồm cả tham quan,

khảo sát, tham dự các hội nghị khoa học ở trong nước và quốc tế.

Cục KH&CN quốc gia Singapore quan tâm tới các biện pháp khuyến

khích các nhà KH&CN nói chung, khu vực các cơ quan R&D nói riêng dưới các

hình thức: Giải thưởng khoa học quốc gia dành cho những cá nhân và tập thể có

đóng góp trong nghiên cứu cơ bản thuộc các lĩnh vực của khoa học và kỹ thuật;

Giải thưởng công nghệ quốc gia để ghi nhận các hoạt động nổi tiếng trong lĩnh

vực R&D và Huy chương KH&CN quốc gia ghi nhận những đóng góp to lớn

của người có công đối với sự tăng trưởng và phát triển của đất nước Singapore.

Singapore cho phép nhà khoa học làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Việc các

nhà khoa học trong các cơ quan R&D và các nhà công nghệ nổi tiếng tham gia

giảng dạy ở các trường đại học là công việc hết sức bình thường. Ngược lại hầu

như 100% các thầy giáo ở các trường đại học tham gia nghiên cứu khoa học.

* Thái Lan: Hiến pháp năm 1949 được coi là chính sách KH&CN đầu

tiên của nước này, còn vai trò của KH&CN bắt đầu được thể hiện rõ trong Kế

hoạch Kinh tế và Xã hội lần thứ 5 (1982-1986). Chính sách khoa học và nghiên

cứu của Thái Lan tập trung chủ yếu vào 4 nội dung chính là phát triển nguồn

nhân lực, hoạt động R&D, chuyển giao công nghệ và phát triển cơ sở hạ tầng.

Hiện nay, Chính phủ Thái Lan đang xúc tiến phát triển nhân lực trong các lĩnh

67



vực KH&CN ở mọi cấp để có đủ về mặt chất và lượng, chuẩn bị cho giai đoạn

bước vào một nền kinh tế mới.

Tiền lương ở mức khởi điểm của nhân lực KH&CN trong các cơ quan

R&D Thái Lan ở mức gấp 3 lần lương tối thiểu. Tuy nhiên, tốc độ tăng lương

của họ nhanh, nhất là khi chuyển đổi trình độ và đặc biệt là sau khi được xét

phong Phó giáo sư hoặc Giáo sư. Về cơ cấu tiền lương và thưởng, nhân lực

KH&CN trong các cơ quan R&D được hưởng như đối với các chuyên viên nhà

nước. Khu vực tư nhân thường dùng hình thức thu hút thông qua cách trả lương

cao hơn khoảng 20%. Bộ các trường đại học đã bắt đầu một dự án mới, gọi là dự

án về hưu muộn đối với các giáo sư và cán bộ giảng dạy các trường đại học ở

một số chuyên ngành. Họ được tiếp tục công việc của mình sau khi đã về hưu ở

độ tuổi 60. Mục đích của dự án là tạo cơ hội để thu hút nhân lực KH&CN nhằm

làm sâu sắc thêm nguồn nhân lực, hỗ trợ cho sự phát triển của đất nước.

Với kiều dân là các nhà khoa học đang sinh sống ở nước ngoài, Chính phủ

khảo sát và có kế hoạch động viên, khuyến khích họ đáp ứng các nhu cầu ở trong

nước dưới các hình thức: cố vấn về KH&CN, theo dõi và cung cấp thông tin về

KH&CN ở các nước phát triển; xác định phương pháp chuyển giao công nghệ

thích hợp nhất, tìm kiếm các cơ hội hợp tác về công nghệ với các đối tác ở nước

ngoài về nước làm việc. Ngoài ra còn khuyến khích sử dụng các chuyên gia nước

ngoài trong hoạt động giảng dạy, dẫn dắt công tác R&D... thể hiện dưới các dạng

giảm thuế thu nhập cá nhân, tăng tiền thưởng, tạo lập môi trường làm việc tốt

cho các hoạt động KH&CN.

* Trung Quốc: Chính phủ qui định hệ số chênh lệch giữa lương khởi

điểm của cử nhân trong cơ quan R&D và lương tối thiểu trong nền kinh tế là 2,7;

hệ số này ở mức trung bình khá so với các nước đang phát triển. Tuy nhiên,

trong thực tế có sự khuyến khích tăng thu nhập bằng cách cho phép các nhà khoa

học và kỹ sư được dành một phần thời gian làm việc chính ngạch để tham gia

các hoạt động khác có liên quan đến phát triển KH&CN, dự án KH&CN và được

68



nhận tiền công, tiền thưởng hợp lý. Các cơ quan kinh tế (nhà nước và không của

nhà nước) được quyền ký kết hợp đồng lao động với mức lương không hạn chế.

Đối với người giỏi, mức lương có thể gấp nhiều lần so với khi làm việc cho nhà

nước. Đây là cơ chế linh hoạt về tiền lương, tuyển dụng, sử dụng nhân lực

KH&CN thu hút nhân lực thông qua các dự án, góp phần khai thác hiệu quả và

triệt để tiềm năng chất xám vì mục tiêu phát triển.

Vị trí làm việc của cán bộ KH&CN được xác định bởi cấu trúc và tỷ lệ

thích hợp của đội ngũ cán bộ trong nhiệm sở với các loại hình cán bộ có trình độ

cao cấp, trung cấp và sơ cấp. Số vị trí làm việc cũng như yêu cầu về trách nhiệm,

trình độ, nhiệm kỳ…được xác định trước. Để khách quan, lãnh đạo hành chính

quyết định một hội đồng tuyển chọn, công bố trước các yêu cầu, chức trách, trình

độ đòi hỏi, nhiệm kỳ và mức lương thích hợp. Hình thức thi tuyển hoặc thử thách

cũng được áp dụng trong đánh giá cán bộ KH&CN. Kết quả của nó liên quan

trực tiếp đến việc tăng lương, thưởng, phạt, kết thúc hoặc kéo dài hợp đồng…

“Cơ chế mềm” lưu chuyển nhân tài đi: “Ở Trung Quốc xuất hiện mô hình

“kỹ sư ngày thứ bảy” vào đầu những năm 1980, khi đó các chuyên gia kỹ thuật

của một số Viện nghiên cứu và doanh nghiệp nhà nước ở Thượng Hải được đơn

vị cho phép nghỉ trước ngày nghỉ chủ nhật đến những doanh nghiệp hương trấn

ở tỉnh Triết Giang làm cố vấn. Mô hình này đã mở ra hướng lưu động nhân tài

theo “cơ chế mềm” sau này. Theo đó, các chuyên gia không cần thiết chuyển hộ

khẩu thường trú, không thay đổi công việc đang làm nhưng vẫn có thể làm việc ở

đơn vị mới theo thỏa thuận nhất định, điều này không làm cho nhân tài bị kẹt

cứng vào một chỗ, không lưu động được. Thành phố Thượng Hải ban hành biện

pháp thu hút nhân tài vào lĩnh vực dân doanh, trong đó quy định: không phân

biệt quốc tịch, văn bằng, địa vị xã hội, miễn là có biệt tài đáp ứng được yêu cầu

của thành phố thì đều được hưởng đãi ngộ theo quy định. Nhiều địa phương

Trung Quốc hiện nay nêu lên phương châm sử dụng nhân tài “bất cầu sở hữu,

đản cầu sử dụng” (không yêu cầu sở hữu chuyên gia, chỉ yêu cầu sử dụng

69



chuyên gia). Ở Thành phố Ninh Ba, tỉnh Triết Giang, các xí nghiệp dân doanh

đã mời hơn chục “bộ óc ngoại” từ Thượng Hải. Các bộ óc này đang làm việc

cho các doanh nghiệp nước ngoài, mỗi tuần đến Ninh Ba vài lần, bình thường thì

qua điện thoại, e-mail để “chỉ huy từ xa”. Tỉnh Hà Bắc đề ra “công trình thu hút

chất xám” và thường xuyên có quan hệ với 193 Viện sĩ thông qua Hội Liên hiệp

Hữu nghị để giải quyết những việc cần thiết cho tỉnh. Viện Khoa học Trung

Quốc thông qua “hệ thống bình xét chuyên gia ở nước ngoài” đã thường xuyên

thu hút trên 100 nhà khoa học cao cấp ở nước ngoài làm tư vấn hoặc đối tác,

hình thành “Quỹ các học giả kiệt xuất ở nước ngoài” tạo điều kiện để chuyển từ

chất xám sang thu hút nhân tài sau này. Thành phố Quảng Châu đã thành lập

“Trung tâm thuê nhân tài”, hiện có 1025 đơn vị thuê bằng nhiều hình thức.

Thành phố Thẩm Quyến bằng phương thức mềm “không chuyển hộ khẩu, đôi

bên thương lượng, đi ở tự do” đã thu hút được 37 vạn cán bộ khoa học kỹ thuật

và kinh tế làm việc theo dự án. Cán bộ lãnh đạo ở các viện nghiên cứu khoa học

của nhà nước đa phần nằm trong dải 36 đến 55 tuổi. Các giáo sư lớn tuổi

thường giữ vai trò cố vấn hoặc hướng dẫn khoa học. Nhà nước Trung Quốc áp

dụng nhiều biện pháp thu hút kiều dân là các nhà khoa học gốc Hoa có trình độ

cao trở về đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, họ không chủ

trương cho những người này trở về định cư ở trong nước”11.

3.1.3. Nhận định

Các nước OECD, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc nêu trên đều quan tâm

đặc biệt tới chính sách thu hút nhân tài, thấy rõ vai trò quan trọng của vấn đề này

trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội. Các nước đều có: (i) Hệ

thống luật pháp, chính sách hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động thu hút nhân

tài theo các đề án, dự án như: cho phép các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu nếu



11



http://tuoitre.vn/The-gioi/Ho-so/14808/Trung-Quoc-Thuc-thi-chien-luoc-cuong-quoc-nhan-tai.html: Nguyễn

Thành Tuệ, Trung Quốc: Thực thi chiến lược cường quốc nhân tài, 02.01.2004



70



có điều kiện thì làm kiêm nhiệm. Ngoài phần thu nhập mà họ có được do công

việc, họ còn có thể phát huy khả năng trí tuệ ở các nơi cần đến họ. Đây là một

biện pháp tiết kiệm, tận dụng tri thức, chất xám, kinh nghiệm; (ii) Chính sách

tuyển dụng đội ngũ nhân lực KH&CN rõ ràng thông qua việc đặt các tiêu chuẩn

cần thiết cho đội ngũ, các yêu cầu của từng ngành nghề, tiến hành chọn người

cho công việc chứ không chọn công việc cho người và (iii) Chính sách thu hút

đội ngũ trí thức kiều dân ở nước ngoài đem kiến thức khoa học, kinh nghiệm

công tác về giúp đỡ nước nhà thông qua các hình thức hội thảo, diễn đàn, giảng

dạy và tham gia thực hiện các dự án KH&CN.

3.2. Phân tích kết quả khảo sát

Khảo sát 30 sở, ngành (sau đây gọi tắt là cơ quan nhà nước); 20 doanh

nghiệp của tỉnh Bình Phước theo danh sách được liệt kê dưới đây:

Bảng 3.1: Danh sách các tổ chức gửi phiếu khảo sát

STT

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18



Cơ quan nhà nước



STT



Ban Tổ chức Tỉnh ủy

Ban quản lý các Khu kinh tế

Ban quản lý dự án ngành xây dựng

Ban quản lý dự án ngành giao thông

Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất

lượng

Chi cục Bảo vệ môi trường

Hội nông dân tỉnh

Liên hiệp các hội Khoa học-Kỹ thuật

tỉnh

Phòng KT-HT huyện Bù Gia Mập

Phòng Kinh tế thị xã Bình Long

Phòng KT-HT huyện Hớn Quản

Sở Khoa học và Công nghệ

Sở Nông nghiệp và PTNT

Sở Tài nguyên và Môi trường

Sở Công Thương

Sở Xây dựng

Sở Giao thông-Vận tải

Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch

71



1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18



Doanh nghiệp

TNHH MTV cao su Bình Long

TNHH MTV cao su Sông bé

TNHH MTV cao su Đồng Phú

TNHH MTV cao su Lộc Ninh

TNHH MTV Quảng cáo Thanh

Niên

TNHH TM-DV-SX Khánh Tùng

TNHH MTV cao su Bình Phước

TNHH MTV thương mại-dịch vụ

Vũ Tuấn

TNHH Lan Đoàn

TNHH Vân An

TNHH cây xanh Công Minh

TNHH Hoa Huế

TNHH Bảo Long

Công ty Cổ phần Hùng Nhơn

Công ty Mỹ Lệ TNHH

DNTN Hải Phượng

DNTN Ánh Tuyết

DNTN Cẩm Hồng



19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30



Sở Y tế

Sở Kế hoạch và Đầu tư

Sở Nội vụ

Sở Giáo dục và Đào tạo

Sở Thông tin và Truyền thông

Sở Lao động-Thương binh và Xã hội

Trung tâm khuyến công và tư vấn

phát triển công nghiệp

Trung tâm thể dục thể thao

Trung tâm khuyến nông-khuyến ngư

Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN

Cao đẳng Sư phạm Bình Phước

Cao đẳng kỹ thuật nghiệp vụ cao su



19

20



DNTN Cường Phát Tài

Điện lực Bình Phước



- Đối với khối cơ quan nhà nước: Số phiếu phát ra 30, số phiếu thu vào 26

- Đối với các doanh nghiệp: Số phiếu phát ra 20, số phiếu thu vào 16

* Công tác bố trí, giao việc cho cán bộ KH&CN: Theo số liệu khảo sát của

tác giả thì: Đối với khối cơ quan nhà nước công tác bố trí, giao việc cho cán bộ

KH&CN có 80,77% số người được hỏi cho là hợp lý; 19,23% cho là chưa hợp

lý. Đối với các doanh nghiệp, con số này tương ứng là 93,75% và 6,25%.

Biểu đồ 3.2: Công tác bố trí, giao việc Biểu đồ 3.3: Công tác bố trí, giao việc

cho cán bộ KH&CN khối cơ quan cho cán bộ KH&CN khối doanh

nhà nước

nghiệp



6,25



19,23



Hợp lý



Hợp lý



Chưa hợp lý



Chưa hợp lý



80,77

93,75



* Nhân lực KH&CN đáp ứng công việc: Khối cơ quan nhà nước có 16/26

cơ quan (chiếm 61.54% số cơ quan trả lời) cho rằng trên 2/3 nhân lực KH&CN

72



đáp ứng công việc và 10/26 cơ quan (chiếm 38.46 % cơ quan trả lời) cho rằng

dưới 1/3 nhân lực KH&CN chưa đáp ứng công việc. Trong số các tiêu chí đánh

giá nhân lực KH&CN đáp ứng công việc thì tiêu chí được chọn nhiều nhất là:

“nhân lực KH&CN gắn bó lâu dài với cơ quan” (18 lựa chọn); “nhân lực

KH&CN luôn tự nâng cao trình độ” (16 lựa chọn); “công việc KH&CN của cơ

quan sẽ duy trì và phát triển tốt” (13 lựa chọn); “nhân lực KH&CN chỉ làm công

tác chuyên môn” (12 lựa chọn). Trong khi đó, các tiêu chí “chính sách quản lý,

ưu đãi nhân sự KH&CN tốt”; “người dân đánh giá hiệu quả cao”; “doanh

nghiệp đánh giá cao, không khiếu nại” mỗi loại chỉ có 2 lựa chọn. Các con số

cho thấy các cơ quan nhà nước tin tưởng công việc liên quan đến KH&CN sẽ

duy trì và phát triển tốt, trong khi chưa thực sự quan tâm đến việc đáp ứng nhu

cầu của khách hàng bên ngoài (người dân).

Bảng 3.4: Nhân lực KH&CN đáp ứng công việc trong cơ quan nhà nước

Trường hợp



Các tiêu chí

Đủ nhân lực KH&CN để nghiên cứu khoa học

Nhân lực KH&CN chất lượng, phân bổ đúng, tự mình tiến hành

nghiên cứu khoa học

Nhân lực KH&CN chỉ làm công tác chuyên môn

Cơ quan có bộ phận chuyên trách về KH&CN

Nhân lực KH&CN luôn tự nâng cao trình độ

Nhân lực KH&CN gắn bó lâu dài với cơ quan

Hạ tầng KH&CN tốt, thông tin nhanh, chính xác

Chính sách quản lý, ưu đãi nhân sự KH&CN tốt

Người dân đánh giá hiệu quả cao

Doanh nghiệp đánh giá cao, không khiếu nại

Cơ quan khác đánh giá cao, không có phản ánh

Công việc KH&CN của cơ quan sẽ duy trì và phát triển tốt

Tổng



Phần trăm



8

9



7.21

8.11



12

11

16

18

10

2

2

2

8

13

111



10.81

9.91

14.41

16.22

9.01

1.80

1.80

1.80

7.21

11.71

100



Có 38.46 % cơ quan trả lời cho rằng dưới 1/3 nhân lực KH&CN chưa đáp

ứng công việc. Trong số các tiêu chí đánh giá nhân lực KH&CN chưa đáp ứng

công việc thì tiêu chí được chọn nhiều nhất là: “nhân lực KH&CN đảm nhận

nhiều việc khác” (18 lựa chọn); “thiếu nhân lực KH&CN, chưa phân bổ đúng”

(13 lựa chọn); “chưa có chính sách quản lý, ưu đãi nhân sự tốt” (13 lựa chọn);

73



“chưa có bộ phận chuyên trách về KH&CN” (13 lựa chọn). Trong khi đó, các

tiêu chí “doanh nghiệp chưa đánh giá cao, còn khiếu nại”; “nhân lực KH&CN

không tự nâng cao trình độ”; “người dân có khiếu nại” lần lượt chỉ có 3, 2 và 1

lựa chọn. Đặc biệt, tiêu chí “cơ quan khác chưa đánh giá cao, có phản ánh”;

“công việc KH&CN của cơ quan sẽ không duy trì tốt và sẽ không phát triển tốt”

mặc dù đã được liệt kê trong bảng hỏi nhưng không có đơn vị nào chọn lựa. Như

vậy, cho thấy các tổ chức chưa quan tâm đến việc phát triển nhân lực KH&CN

để đáp ứng yêu cầu của khách hàng nội bộ cũng như đáp ứng yêu cầu của khách

hàng bên ngoài.

Bảng 3.5: Nhân lực KH&CN chưa đáp ứng công việc trong cơ quan nhà

nước

Trường hợp



Các tiêu chí

Thiếu nhân lực KH&CN, chưa phân bổ đúng

Nhân lực KH&CN kém chất lượng, cần sự cộng tác, hợp đồng

hoặc thuê cơ quan bên ngoài

Nhân lực KH&CN đảm nhận nhiều việc khác

Chưa có bộ phận chuyên trách về KH&CN

Nhân lực KH&CN không tự nâng cao trình độ

Nhân lực KH&CN không gắn bó lâu dài

Hạ tầng KH&CN chưa tốt, thông tin chậm

Chưa có chính sách quản lý, ưu đãi nhân sự tốt

Người dân có khiếu nại

Doanh nghiệp chưa đánh giá cao, còn khiếu nại

Tổng



Phần trăm



13

11



15.11

12.79



18

13

2

4

8

13

1

3

86



20.93

15.11

2.33

4.65

9.30

15.11

1.17

3.49

100



Với khối doanh nghiệp, việc đánh giá nhân lực KH&CN đáp ứng công

việc theo thứ tự các tiêu chí được chọn là: “đủ nhân lực KH&CN để nghiên cứu

khoa học” (7 lựa chọn); “nhân lực KH&CN chỉ làm công tác chuyên môn” (6

lựa chọn); “nhân lực KH&CN luôn tự nâng cao trình độ” (5 lựa chọn); “nhân

lực KH&CN gắn bó lâu dài” (4 lựa chọn). Đáng chú ý là tiêu chí “nhân lực

KH&CN chất lượng, phân bổ đúng, tự mình tiến hành nghiên cứu khoa học” (2

lựa chọn), các tiêu chí : “người dân đánh giá hiệu quả cao” và “cơ quan khác

đánh giá cao, không có phản ánh” chỉ có 1 lựa chọn, còn các tiêu chí “doanh

74



nghiệp đánh giá cao, không khiếu nại”; “công việc KH&CN của doanh nghiệp

sẽ duy trì và phát triển tốt” dù đã được liệt kê trong bảng hỏi nhưng không có

đơn vị nào chọn lựa. Như vậy, nhu cầu thu hút chuyên gia của các doanh nghiệp

cũng rất lớn, các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc duy trì và phát triển mối

quan hệ với khách hàng bên ngoài.

Bảng 3.6: Nhân lực KH&CN đáp ứng công việc trong các doanh nghiệp

Trường hợp



Các tiêu chí

Đủ nhân lực KH&CN để nghiên cứu khoa học

Nhân lực KH&CN chất lượng, phân bổ đúng, tự mình tiến hành

nghiên cứu khoa học

Nhân lực KH&CN chỉ làm công tác chuyên môn

Có bộ phận chuyên trách về KH&CN

Nhân lực KH&CN luôn tự nâng cao trình độ

Nhân lực KH&CN gắn bó lâu dài

Hạ tầng KH&CN tốt, thông tin nhanh, chính xác

Chính sách quản lý, ưu đãi nhân sự KH&CN tốt

Người dân đánh giá hiệu quả cao

Cơ quan khác đánh giá cao, không có phản ánh

Tổng



Phần trăm



7

2



20.00

5.71



6

3

5

4

3

3

1

1

35



17.14

8.57

14.28

11.43

8.57

8.57

2.86

11.43

100



Đối với khối doanh nghiệp, trong số các tiêu chí đánh giá nhân lực

KH&CN chưa đáp ứng công việc thì tiêu chí được chọn nhiều nhất là: “chưa có

bộ phận chuyên trách về KH&CN” (13 lựa chọn); “nhân lực KH&CN kém chất

lượng, cần sự cộng tác, hợp đồng hoặc thuê cơ quan bên ngoài” (10 lựa chọn);

“hạ tầng KH&CN chưa tốt, thông tin chậm” (10 lựa chọn). Đáng chú ý là các

tiêu chí: “người dân có khiếu nại”; “doanh nghiệp chưa đánh giá cao, còn khiếu

nại”; “cơ quan khác chưa đánh giá cao, có phản ánh” và “công việc KH&CN

của doanh nghiệp sẽ không duy trì tốt và sẽ không phát triển tốt” có trong bảng

hỏi nhưng các doanh nghiệp không chọn lựa; tiêu chí “nhân lực KH&CN không

gắn bó lâu dài” và tiêu chí “chưa có chính sách quản lý, ưu đãi nhân sự tốt” chỉ

nhận từ 1-2 lựa chọn. Như vậy, khối doanh nghiệp chưa có định hướng dài hạn

cho việc phát triển nhân lực KH&CN. Có 2 khả năng: KH&CN chưa được doanh



75



nghiệp coi trọng trong hoạt động kinh doanh hoặc doanh nghiệp thấy không cần

thiết phải ứng dụng KH&CN để phát triển doanh nghiệp trong tương lai.

Bảng 3.7: Nhân lực KH&CN chưa đáp ứng công việc trong doanh nghiệp

Trường hợp



Các tiêu chí

Thiếu nhân lực KH&CN, chưa phân bổ đúng

Nhân lực KH&CN kém chất lượng, cần sự cộng tác, hợp đồng

hoặc thuê cơ quan bên ngoài

Nhân lực KH&CN đảm nhận nhiều việc khác

Chưa có bộ phận chuyên trách về KH&CN

Nhân lực KH&CN không tự nâng cao trình độ

Nhân lực KH&CN không gắn bó lâu dài

Hạ tầng KH&CN chưa tốt, thông tin chậm

Chưa có chính sách quản lý, ưu đãi nhân sự tốt

Tổng



Phần trăm



6

10



12.00

20.00



5

13

3

1

10

2

50



10.00

26.00

6.00

2.00

20.00

4.00

100



* Nhân lực KH&CN tham gia nghiên cứu khoa học: Đối với khối cơ quan

nhà nước có 15.11% số người được hỏi cho là thiếu nhân lực KH&CN; 12.79%

cho là nhân lực KH&CN kém chất lượng, cần sự cộng tác, hợp đồng hoặc thuê

cơ quan bên ngoài.

Đối với khối doanh nghiệp, con số này tương ứng là 12% và 20%.

* Phân bổ đề tài, dự án KH&CN:

Bên cạnh các điều kiện về cơ chế chính sách, đãi ngộ cán bộ thì việc phân

bổ các đề tài nghiên cứu khoa học tại các đơn vị nghiên cứu khoa học trên địa

bàn tỉnh Bình Phước có ảnh hưởng đến việc bố trí hay lựa chọn người chủ trì các

nhiệm vụ KH&CN.

Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy: Đối với khối cơ quan nhà nước có

35.48% số các nghiên cứu khoa học được phân bổ dựa vào uy tín và do quan hệ

của chủ trì đề tài; 58.07% số các nghiên cứu khoa học được phân bổ dựa vào

định hướng nghiên cứu của đơn vị; 6.45% do tính khoa học của đề tài được xét

duyệt.

Đối với khối doanh nghiệp thì con số này tương ứng là: 18.52%; 66.67%

và 14.81%.

76



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

×