Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.46 KB, 109 trang )
Chương 2
NHỮNG KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM .
Trong mỗi một tác phẩm văn học, thì hệ thống nhân vật cũng là một
nhân tố quan trong trong việc bộc lộ phong cách của người nghệ sĩ, đó cũng là
một yếu tố không kém phần quan trọng so với hệ thống tư tưởng của người
nghệ sĩ trong sáng tạo của mình. Đó là kết quả của sự quan sát cuộc sống một
cách tinh tế, kết hợp với trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Qua
nhân vật, nhà văn bộc lộ thái độ cảm xúc của mình đối với cuộc sống. Chính
vì vậy khi nghiên cứu về một tác giả văn học thì ta phải quan tâm đến hệ
thống các nhân vật trong tác phẩm của tác giả đó. Qua những nhân vật, chúng
ta sẽ thấy dấu ấn cá nhân của nhà văn trong đó.
Mỗi một nhà văn có một cách xây dựng hệ thống nhân vật của mình,
chính vì vậy mà ở mỗi nhà văn hệ thống nhân vật mang một đặc điểm khác
nhau. Cùng trong nhóm Tự lực văn đoàn, có những quan điểm sáng tác gần
gũi nhau, những nhân vật trong tác phẩm của Nhất Linh luôn mang trong
mình một lí tưởng đấu tranh thiên về hành động, trong khi đó lí tưởng của
nhân vật trong những sáng tác của Khái Hưng thì mang tính viễn vông, mơ hồ
chỉ có tác dụng an ủi con người. Chính vì vậy hình tượng nhân vật của Khái
Hưng thường mang tính lạc quan, mơ màng, sống nặng về tình cảm, còn nhân
vật của Nhất Linh là những nhât vật luôn đăm chiêu, quằn quại suy nghĩ, để
tìm ra con đường đi cho riêng mình. Một mô tuýp thường được lặp đi lặp lại
trong thơ và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là hình ảnh người khách chinh phu
đang dấn thân vào cuộc đời gió bụi, đang mải mê trong hoạt động bí mật và
một “người yêu” phương xa đang mỏi mắt chờ ở nhà. Những khách chinh phu
ấy là nhân vật Dũng trong tác phẩm Đoạn tuyệt, Phạm Thái trong Tiêu sơn
tráng sĩ. Họ lao vào hành động mà không có một mục đích nhất định. Có thể
nói, họ mang trong mình một triết lí “hành động để hành động”. Bản thân sự
27
hành động đã mang một mục đích tự tại, một ý nghĩ thoát li. Nhu cầu hành
động của họ gần như là “siêu hình”. Trong những tác phẩm của Thạch Lam
người ta không tìm thấy những nhân vật kiểu như vậy. Nhân vật trong các tác
phẩm của Thạch Lam đa phần họ đều là những người thuộc tầng lớp dưới xã
hội: Những trí thức tiểu tư sản nghèo, những bác phu, những bác ích cùng
khổ, những người phụ nữ lao động cần cù chất phác…Họ là những con người
bình dị nhỏ bé và rất thật với những ước muốn lo toan đau khổ. Vì Thạch Lam
có cuộc sống gần gũi với những người lao động nghèo khổ trong xã hội. Bản
thân cuộc sống của nhà văn cũng rất thanh bạch, ông không thích sự ồn ào,
ông không tham gia các hoạt động náo nhiệt ồn ào giống như các anh mình;
Nhất Linh, Hoàng Đạo hay Khái Hưng…Với Thạch Lam hoạt động trong tâm
linh, trong suy nghĩ là quan trọng hơn cả vì ông không phải là con người của
hành động. Chính vì vậy mà nhân vật của ông cũng là những con người thiên
về suy nghĩ, cảm xúc nội tâm. Như vậy những nhân vật của Thạch Lam cũng
mang những dấu ấn tâm hồn của nhà văn và đó là những nhân vật mang phong
cách của tác giả : tinh tế, đa cảm, tha thiết thuần hậu, giàu tinh thần chịu
đựng…Chúng ta sẽ đi tìm hiểu qua ba kiểu nhân vật chủ yếu trong hệ thống
nhân vật của Thạch Lam.
1. Kiểu nhân vật người trí thức tiểu tư sản
2. Kiểu nhân vật người dân nghèo
2. 1 . Kiểu nhân vật người trí thức tiểu tư sản.
Một trong số kiểu nhân vật chiếm vị trí nhiều trong các truyện ngắn của
Thạch Lam là những người trí thức tiểu tư sản. Điều đó cũng có nghĩa là nhà
văn đã miêu tả một lớp người gần gũi với mình, vì vậy đã góp phần tạo nên
thành công của kiểu nhân vật này.
Thạch Lam thường hướng ngòi bút của mình vào những trí thức tiểu tư
sản lớp dưới. Bởi vì sinh thời, Thạch Lam không có một đời sống sung túc
28
như các anh trai mình: Nhất Linh Làm giám đốc nhà xuất bản Đời nay , còn
Hoàng Đạo làm tham tá ngạch Tây. Theo hồi ức của bà Nguyễn Thị Thế, chị
ruột nhà văn “chú rất nghèo vì lương nhà báo chỉ có 30 đồng…vì nghèo nên
chú chỉ ước mơ mua một chiếc ghế bành ngồi mà cung không mua được. Mãi
sau một người bạn thân biết ý nên mua biếu hai chiếc”
Người trí thức tiểu tư sản trong những tác phẩm của Thạch Lam,khi chưa
va chạm với cuộc sống, cũng mang trong mình nhiều khát vọng, băn khoăn
tìm kiếm lí tưởng sống cho cuộc đời mình. Chỉ một nét thoáng qua, nhưng
người đọc cũng bắt gặp được hình ảnh đã lùi về quá khứ của một thanh niên
hăng hái đi theo tiếng gọi của lí tưởng trong Kẻ bại trận. Tuy vậy phần lớn
những ước mơ của những con người này thật bình thường, giản dị. Đối với
Trường trong Ngày mới, “ thi đỗ rồi đi làm công sở, đó là mục đích của cả
một đời”. Nhưng khi đối diện với cuộc sống khắc nghiệt, thì ngay cả những
ước mơ nhỏ bé như thế cũng trở nên xa vời. Trong hầu hết những truyện ngắn
của Thạch Lam hình ảnh người trí thức hiện lên với một “căn bệnh” đó là
nghèo. Họ nghèo vì bị thất nghiệp hoặc bị đe doạ thất nghiệp. “Sinh thở dài,
chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả quyết lạnh
lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng của mấy người anh em
cùng cảnh ngộ với chàng…Từ đó bắt đầu những sự thiếu thốn khổ sở, cho đến
bây giờ.” [47. tr87]. Sống trong một xã hội mà người ta có thể đứng vững và
làm nên nhờ những thủ đoạn, mưu mô, những thanh niên trí thức nghèo chỉ có
kiến thức sách vở và một tấm lòng thanh sạch thì sẽ là những người bị đào
thải trước tiên. Bào trong Người bạn trẻ, cũng mang một tâm sự u uất vì bị
nghi oan, một nỗi chán nản đến cao độ vì không sao tìm được cho mình một
công việc lương thiện. “Suốt mấy tháng nay tôi đi khắp các nơi ở Hà Nội mà
chẳng tìm được việc gì cả. Đến đâu người ta cũng từ chối” [47-tr171]. Đối với
những con người như thế, việc làm là một nhu cầu cần thiết. Đó không những
29
là cách để những con người nhỏ bé ấy tự khẳng định mình, mà còn là phương
tiện để giúp họ tồn tại trong xã hội. Khi hiểu được điều đó chúng ta mới thấy
được những chán nản, tuyệt vọng của họ, không có gì có thể an ủi nổi. Họ cố
gắng vươn lên để có một chỗ đứng trong xã hội dù là rất khiêm nhường.
Trong tác phẩm Cuốn sách bỏ quên tình cảnh không may của văn sĩ Thành
phải chăng có nét trùng hợp với nhà văn Thạch Lam. Đương thời sách của
Thạch Lam thường là những cuốn sách ế nhất Tự lực văn đoàn. Có thể nói
khi miêu tả cuộc sống của người trí thức, đặc biệt là người trí thức thất nghiệp,
Thạch Lam cũng đã gián tiếp miêu tả hoàn cảnh sa sút, bần cùng hoá của xã
hội Việt Nam những năm ba mươi. Ông không miêu tả chúng ở bình diện xã
hội rộng lớn, mà ông miêu tả chúng ở chiều sâu tác phẩm, trong từng cảnh đời
cụ thể.
Trong những năm trước Cách mạng, nạn thất nghiệp dẫn đến cảnh sống
nheo nhóc, túng thiếu của trí thức đã được khá nhiều nhà văn đương thời phản
ánh. Trong tác phẩm Mực mài nước mắt của Lan Khải đã giúp được người
đọc hình dung được khá rõ hoàn cảnh đó. Họ là những người đem trái tim ánh
sáng và những hoài bão lớn lao để hoà nhập vào một cuộc đời nhỏ nhen, tù
túng. Chính vì thế mà họ liên tiếp rơi vào những bi kịch. Bắt đàu là bi kịch của
cuộc sống, cơm áo, gạo tiền. Sau đó là sự dằn vặt về tinh thần là điều không
thể tránh khỏi.
Trong truyện ngắn Đói của Thạch Lam là một tấn bi kịch nhỏ trong số
rất nhiều những bi kịch như thế về cuộc đời nghèo đói, khổ sở. Những nhân
vật trong các tác phẩm của nhà văn phải đấu tranh, vật lộn vì miếng cơm
manh áo của những người trí thức nghèo. Nhiều lúc người đọc như đang
tưởng rằng tác giả đang viết về chính cuộc đời của tác giả , vì chỉ có những
người đã từng trải qua cơn đói khủng khiếp mới có thể miêu tả tỉ mỉ, chân
thực như thế. Trong tình cảnh cùng quẫn đến tột đỉnh thì bản năng con người
30
mới có dịp bộc lộ dễ dàng hơn, bức bách hơn. Sự thật trần trụi ấy được bộc lộ
qua triết lí “ miếng ăn”. Trước kia Sinh vẫn cho rằng “miếng ăn là một sự
không đáng kể”,nhưng lúc này chàng mới thấy “cái cần mạnh mẽ của miếng
ăn là thế nào”[47. tr 91]. Như nhân vật trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn
Nam Cao đã nói rằng khi người ta bị đau chân, thì khó có thể nghĩ đến điều gì
khác ngoài cái chân đau của mình. Cái đói quặn thắt ruột gan khiến Sinh khó
có thể nghĩ đến điều gì khác ngoài những ao ước tầm thường. Những nhân vật
trí thức tiểu tư sản luôn mang nặng tâm lí bi quan yếu thế trước cuộc đời
chung rộng lớn, quay trở về với cuộc đời riêng tù túng chật hẹp. Họ sa vào
những vụn vặt đời sống hàng ngày. Điều này cũng có những nét gần với
những nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao, Nguyên Hồng. Trong Sống
mòn, Thứ, San, Oanh, những con người chôn vùi cuộc đời mình ở một trường
tư nghèo nàn ở ngoại ô Hà Nội cũng sa vào những chuyện nhỏ nhặt tầm
thường mà trước đây họ từng khinh bỉ, “những bữa ăn họ cãi nhau toang
toang như họp làng”. Bữa ăn được tính toán một cách chi li, “cả hai người
mới được bốn hào, chưa đến năm hào, độ bốn hào với sáu xu gì đó”. Vì cuộc
sống khó khăn, nghèo túng đã làm cho họ trở nên bần hàn, làm cho lương tâm
họ khô héo. Nghèo khổ đã làm thui chột những hoài bão muốn vươn lên bằng
tài năng chân chính của mình và đầy họ tới hoàn cảnh sống mòn.
Những bi kịch tâm trạng do tác động của hoàn cảnh sống ở người trí
thức tiểu tư sản cũng khá rõ nét trong tác phẩm của Thạch Lam. Vì thất
nghiệp, nghèo túng, không còn lối thoát nào khác, Bào trong Người bạn trẻ đã
phải tìm đến cái chết khi chưa đầy 20 tuổi. Trước khi đến với cái chết, người
thanh niên ấy đã từng phải trải qua những giờ phút hoang mang day dứt và
tuyệt vọng. Ở trường hợp Sinh trong Đói, nhân vật không rơi vào cái chết,
nhưng tình thế thảm hại và đau xót hơn nhiều. Trước sự phản bội của người
vợ mà mình vẫn hằng tin yêu, Sinh cảm thấy “một nỗi buồn rầu chán nản vô
31
cùng...trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạ lùng như thắt lấy ruột gan”.
Nhưng mà thảm hại hơn trước sự dày vò của cái đói, Sinh đã ăn vụng trộm,
những miếng bánh, thịt ướp mà trước đó chàng đã hất đi và nguyền rủa. Ở đây
nhân vật đã đặt sự tồn tại lên trên nhân cách. Đó là những tín hiệu đầu tiên,
tuy còn rất mong manh và mang tính dự báo của quá trình tha hoá, biến đổi
nhân tính con người do tác động của hoàn cảnh. Bi kịch tâm trạng đã trở nên
khá phổ biến ở trí thức tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Những
cái tầm thường, hàng ngày, hàng giờ gặm nhấm, tàn phá tâm hồn con người.
Vì một miếng ăn, một nhu cầu vật chất tầm thường mà con người ta có thể
đánh mất lòng tự trọng và nhân phẩm. Cảm giác của Sinh sau hành động động
hèn mạt của mình, “một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh
lấy hai tay ôm mặt khóc nức nở”, là biểu hiện của một bi kịch không lối thoát.
Đọc Đói ta liên tưởng đến một truyện ngắn khác của Nguyên Hồng. Truyện
Miếng bánh, ở đây có một cảnh tương tự truyện ngắn Đói. Hưng nhân vật
chính của truyện- sau khi không kiềm chế nổi lòng mình đã giấu vợ miếng
bánh, và từ đó anh sống trong tâm trạng ân hận nhục nhã đến độ “cả cổ họng
và ruột gan xoắn lại. Tâm trí Hưng nức nở. Miếng bánh nhai nhỏ ra càng như
mảnh thuỷ tinh tẩm mật cá”[48. tr 253]. Cảm giác của Nguyên Hồng tàn khốc
hơn nhưng dư vị chua chát có lẽ chưa đạt đến mức độ như của Thạch Lam.
Bởi vì bút pháp của Nguyên Hồng chưa đạt đến độ sâu lắng như Thạch Lam.
Bi kịch tâm trạng dẫn đến biến đổi tâm tính, xuất hiện ở tất cả các trí thức
tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Quanh quẩn vì miếng ăn, vì sự
chi tiêu của một gia đình, Xuân trong Ngày mới, mất cả nhân tính không thiết
gì vợ con và mẹ già. Chàng như một con thiêu thân, lao vào cuộc chơi bời để
tìm quên lãng. Bính trong Buổi sớm cũng vì chán nản mà lao đầu vào truỵ lạc
“chàng chơi mãi cho của cải hết, nhà cửa bán dần và sức khoẻ của chàng
ngày một mất đi. Một sự chua chát thấm vào tâm hồn chàng, một sự chán nản
32
cho mình và cho người khác. Có lẽ nỗi thất vọng trước sự tan vỡ những mộng
tưởng cao quý và đẹp đẽ trong đời chàng đã đẩy chàng xuống vực sâu”. Khi
những ước vọng khiêm tốn bị đổ vỡ trước thực tế phũ phàng thì những con
người ấy rơi vào bi kịch vỡ mộng. Đó là những bi kich điển hình của Văn học
phương Tây. Văn học Việt Nam trước Cách mạng, kiểu nhân vật trí thức tiểu
tư sản của Nam Cao cũng mang nhiều bi kịch, nhiều nỗi đau sâu sắc. Với kiểu
nhân vật người trí thức nghèo Thạch Lam vẫn chưa tạo được những kiểu nhân
vật như vậy mang tính điển hình cao.
Trong tác phẩm của Thạch Lam, tâm lí của những nhân vật trí thức được
miêu tả rất tỉ mỉ. Bởi lẽ đó là những nhân vật, những con người có đời sống
tâm hồn hết sức phong phú. Trong tác phẩm Một cơn giận, vì sự vô cớ cáu
giận của nhân vật Thanh mà cả gia đình nhà bác phu xe đã lâm vào cảnh vô
cùng khốn khó, điều đó khiến anh day dứt mãi không thôi “Hình như có một
cái gì đè nặng lên ngực làm cho tôi khó thở và lúc này hình ảnh anh phu xe
cũng hiển hiện ra trước mắt”[47. tr64].ở đây cho ta thấy người trí thức trong
một lúc nào đó những người trí thức vẫn loay hoay với những suy nghĩ về bản
thân mình. Và sau rất nhiều hối hận Thanh trong Một cơn giận đã tự nhủ thầm
“người ta có thể tàn ác một cách rất dễ dàng”. Cái cách nhìn sâu vào trong
tâm hồn, đúc rút những quy luật và phanh phui mọi góc cạnh của nó để người
đọc suy nghĩ và trăn trở theo nhân vật đã trở thành một đặc điểm rất riêng của
Thạch Lam. Điều đó đã giúp ông khắc hoạ thành công bộ mặt của những trí
thức tiểu tư sản, và các tác phẩm ông thường có tính tự truyện, bởi vì trong
những tác phẩm ấy mang dáng dấp của nhà văn. Những con người trí thức đó
thường vỡ mộng, cuộc sống bế tắc và họ cảm thấy thương hại chính mình.
Theo nhận xét của ông Đỗ Đức Thu- người bạn rất thân của nhà văn “Thạch
Lam là người giàu tình cảm, chỉ vì trường đời tạo cho anh cái thái độ dè dặt,
bắt anh phải sống cái đời con ốc trong một vỏ kín bưng. và cái tâm hồn phong
33
phú, cái đời tâm tưởng rồi rào ấy đã có lần cởi mở với thế nhân để rồi chịu
những thương tích nó làm giảm dần lòng tin ở người đời”[47. tr20].
Khi so sánh kiểu nhân vật này của Thạch Lam với các nhà văn khác như
Nam Cao chúng ta thấy có những điểm gần gũi, nhưng khác với các nhân vật
trong tác phẩm của Nam Cao, người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm của
Thạch Lam chưa có được những giằng co để vươn lên và cũng chưa bao giờ
phê phán mình một cách chân thành. Những nét tâm lí này được nhà văn
Thạch Lam khai thác, nhưng đang ở chỗ là những khoảnh khắc chứ chưa phải
là những mâu thuẫn dồn nén. Đây cũng là một đặc điểm riêng của Thạch Lam.
Từ những đặc điểm đó ta thấy Thạch Lam thường thành công với việc xây
dựng những nhân vật thoáng qua hơn là những nhân vật những suy tư, đấu
tranh sâu sắc. Chính vì vậy mà hình tượng người trí thức tiểu tư sản trong tác
phẩm của Thạch Lam còn thiếu sức mạnh về sự khái quát và nâng cao, những
nhân vật đó thường có chung một nguyên mẫu, một suy nghĩ và một kiểu tư
duy bế tắc. Và những nhân vật đó thường mang đậm dấu ấn của chính nhà
văn, phảng phất tâm hồn Thạch Lam. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã
nhận xét “Tất cả những nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam đều có
những cái phảng phất của tâm hồn Thạch Lam”. Điều này vừa là đặc điểm
riêng, đồng thời cũng là hạn chế của Thạch Lam thể hiện rõ nét trong những
tác phẩm viết về người trí thức.
Kiểu nhân vật người dân nghèo.
2.2.1 Những người dân nghèo.
Trong những tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam, những truyện ngắn
viết về người dân nghèo chiếm một tỉ lệ khá lớn. Họ là những người nông dân
nghèo lam lũ vất vả, hay những con người sống kiếp lầm than nơi thành thị.
Đó là hình ảnh người mẹ nghèo xóm Đoài thôn Nhà mẹ Lê, là gia đình người
phu xe cùng khổ ở ngoại ô Hà Nội trong Một cơn giân, hay cô gái nghèo phải
34
đi ở để trả món nợ truyền kiếp trong Đứa con ...Những truyện ngắn viết về đề
tài này của Thạch Lam viết trong bối cảnh lịch sử dân tộc đang trong thời kỳ
mặt trận dân chủ 1936-1939. Những năm đó cách mạng Việt Nam đang sôi
sục khí thế đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy những tác phẩm ra đời trong thời gian
này cũng ít nhiều bị chi phối bởi bối cảnh lịch sử. Cho nên trong giai đoạn này
người nông dân đã xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học. Ngay trên tờ
báo Ngày nay cũng xuất hiện một chuyên mục “Bùn lày nước đọng“ chuyên
viết về dân quê. Từ năm 1937 Tự lực văn đoàn bắt đầu tặng giải thưởng cho
những tác phẩm giàu tính hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Kim tiền
của Vi Huyền Đắc. Báo Ngày Nay đăng Con trâu và Sau luỹ tre của Trần
Tiêu, hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Năm 1939 bàn về đạo
làm người Hoàng Đạo có viết trong Mười điều tâm niệm : “Con người phải
sống có lí tưởng và điều có ích cho xã hội“. Tinh thần dân tộc, thái độ phê
phán bọn địa chủ quan liêu, bóc lột, sự cảm thông chân thành đối với những
nỗi khổ cực của người dân quê sau luỹ tre xanh được thể hiện trong tác phẩm
Đoạn tuyệt (1934-1935), Tối tăm, Đôi bạn của Nhất Linh...Những sự kiện
như vậy chứng tỏ rằng số phận của những người bình dân cũng là một điều
băn khoăn đối với các nhà văn chủ nghĩa lãng mạn nói chung và Tự lực văn
đoàn nói riêng. Trong số những nhà văn ấy thì Thạch Lam được người đọc
nhìn nhận khác các bạn văn của ông như: Nhất Linh, Hoàng Đạo. Bởi có lẽ
những người dân nghèo thành thị hay thôn quê xuất hiện trong tác phẩm của
ông, không phải là một sự a dua chạy theo xu thế của các nhà văn đương thời,
mà hình tượng nhân vật nay xuất hiện khá lâu trong tác phẩm của ông. Nhưng
điều quan trọng hơn là hình tượng nhân vật này trong các tác phẩm của Thạch
Lam được ông miêu tả, giới thiệu một cách cặn kẽ với một tình cảm yêu
thương chân thành. Như vậy cũng không thể quy kết các nhà văn Tự lực văn
35
đoàn là giả dối, hay là cơ hội chủ nghĩa, nhưng trong lĩnh vực này chúng ta
phải thừa nhận Thạch Lam là người thành thực hơn cả. Chính nhà văn cũng đã
từng phát biểu về vấn đề này “Ít lâu nay, những tiểu thuyết viết về dân quê khá
nhiều. Một số nhà văn, vì theo thời thượng hay vì một cái sở thích văn chương
đột ngột đã từ bỏ những nhân vật phi thường hay lãng mạn để quay đầu nhìn
về người nhà quê chân lấm tay bùn trên thửa ruộng. Người này trở nên nhân
vật chính trong tác phẩm của họ”. [49. tr 48]. Khác với họ ngày từ những sáng
tác đầu tay của mình, Thạch Lam đẫ hướng về người nghèo với một tình cảm
chân thành. Hình ảnh người dân nghèo hiện lên với những nỗi nghèo khổ thật
đa dạng. Đó là câu chuyện thương tâm của một gia đình đông con nghèo khổ.
Người mẹ của đàn con đói nghèo khổ vì không có miếng ăn phải đi ăn xin bị
nhà giàu xua chó cắn dẫn tới cái chết thương tâm Nhà mẹ Lê. Đó là cảnh
khốn cùng của gia đình người phu xe nghèo, không đủ tiền nộp phải trốn biệt
xứ để lại mẹ già, người vợ nheo nhóc và đứa con sài chết vì không có nổi một
đồng xu mua thuốc, là một tiếng kêu bi thương tha thiết “Trong cái hang tối
tăm bẩn thỉu ấy sống một đời sống khốn nạn những người gầy gò, người con
gái sống kiếp tôi đòi cũng được miêu tả thât cụ thể”. “Chị Sen cúi mình dưới
gánh nước nặng trĩu, lách cửa bước vào những bước khó nhọc và chậm chạp.
Cái đòn gánh cong xuống và rên rỉ trên vai, nước trong thùng sánh toé ra mỗi
bước đi” [50 tr 75 ]. Mặc dù phải làm việc đến kiệt sức, người con gái tội
nghiệp ấy vẫn phải thường xuyên chịu những cơn thịnh nộ của bà chủ. Ở
truyện ngắn Cô hàng xén, sau khi lấy người chồng nghèo, gánh nặng gia đình
quá lớn với gia đình đã khiến cuộc đời trở thành một sự đoạ đày đối với một
có gái vốn dĩ là xinh đẹp và đáng yêu. Quanh năm suốt tháng lam lũ, mà cái
nghèo vẫn không buông tha. Cuộc đời của những con người ấy chỉ là chuỗi
dài những vất vả lo toan dường như vượt quá sức chịu đựng của họ.
36
Trong những trang viết của mình, sự thành thực là một tiêu chí mà
Thạch Lam luôn tâm niệm trong quá trình sáng tác. Vì vậy, ông đã lên tiếng
phê phán những nhà văn lãng mạn chỉ biết lí tưởng hoá nông thôn và ca ngợi
cái thi vị của công việc đồng áng. Ông viết trong tiểu luận Theo dòng “ Một
cái tục lệ khác là vẻ nên thơ của công việc đồng áng. Nên thơ với nhà văn
đứng xem, phải. Nhưng sự thực không có công việc nào vất vả nặng nhọc
bằng. Bình minh tươi đẹp chỉ là còi hiệu bắt đầu làm việc” [49 tr 50]. Sự thật
ẩn đằng sau luỹ tre có vẻ thơ mộng ấy là những kiếp người sống đày đoạ khổ
cực trăm bề của người nông dân. Không những họ khổ vì công việc nặng nhọc
mà còn phải chịu bao nhiêu áp bức bất công trong xã hội. Những cảnh khổ sở
đớn đau ấy người đọc có thể bắt gặp đâu đó trong các tác phẩm của Thạch
Lam. Điều đáng nói ở đây là sự thành thực mà nhà văn tâm niệm không phải
chỉ thuộc vào ý nghĩ chủ quan của nhà văn, mà nó có một cơ sở thực tế vững
chắc. Đó là sự hiểu biết khá đầy đủ về đối tượng miêu tả của nhà văn. Tuy là
nhà văn trong một trường phái văn học lãng mạn, nhưng Thạch Lam lại có
điều kiện gần gũi và đồng cảm với người lao động nghèo. Bản thân nhà văn
cũng đã từng nếm trải bao nỗi cay đắng chua chát của cuộc đời người trí thức
nghèo có đầu óc những túi thì luôn trống rỗng. Như vậy có thể nói Thạch Lam
có một vốn sống, một vốn hiểu biết khá sâu sắc về người lao động nghèo. Chỉ
một nhận xét nhỏ của ông cũng chứng tỏ ông am hiểu tâm lí của những người
nông dân “Sự thực người nhà quê chỉ yêu quý ruộng đất chừng nào họ là chủ
ruộng đất ấy thôi. Và khi người nhà quê từ chối không chịu bỏ làng ra tỉnh
hay đi nơi khác kiếm ăn ấy là vì sự giàng buộc của những thói quen sinh
hoạt, những thói quen vật chất hay tinh thần hơn là lòng tha thiết với đồng
ruộng” [49 tr50]. Chính vì nhà văn là người cũng đã từng sống trong cảnh
nghèo khổ cho nên Thạch Lam mới hiểu và thông cảm cho cuộc đời của
những con người nghèo khổ. Ông hiểu và thông cảm cho cuộc sống bấp bênh
37