Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.46 KB, 109 trang )
Trong văn Thạch Lam có nhiều loại cảm giác khác nhau đều được diễn
tả thật tinh tế. Đó là cảm giác của mặt đất khô rắn làm “đau đớn bàn chân non
nớt” của Tân trong Trở về. Nỗi đau đớn tột cùng khi bị mất đi một cái chân
của mình trong Cái chân què được diễn tả rất giản dị bằng thứ ngôn ngữ rất
quen thuộc “ Toát mồ hôi trán, quả tim đập mạnh”. Để lột tả cơn giận dữ khi
biết vợ ngoại tình của Sinh (Đói), nhà văn dùng những từ ngữ mang sắc thái
mạnh: “Cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng”; “cái giận như sôi nổi bồng
bột trong lòng”. Trong Cuốn sách bỏ quên kể về một nỗi buồn của một nhà
văn bị vỡ mộng văn chương, Thạch Lam dùng những từ ngữ giàu khả năng
gợi vào chiều sâu cảm xúc “tuy trời không mưa nhưng Thành tựa thấy trong
lòng mưa bụi , buồn rầu và chán nản, một mối buồn không sâu sắc nhưng êm
đềm làm tê liệt cả tâm hồn”. Đó là nỗi buồn nhẹ như mưa bụi nhưng thấm sâu,
đủ làm nguội đi ước mơ cháy bỏng về nghiệp văn chương. Sự ân hận của
Thanh trong “Một cơn giận” thật dai dẳng không làm cho tâm hồn anh được
bình yên. Nó như “ một cái gì đè nặng lên ngực”, làm cho anh “khó thở”
“trong lòng nôn nao” “cảm giác ngẹn ngào chẹn lấy cổ”. Bao nhiêu nỗi uất
ức tủi cực đã đẩy Dung trong Hai lần chết xuống dòng nước lạnh. Trong cơn
đau đớn nàng vẫn cảm thấy rõ “ trí nàng sắc lại khi nước lạnh ập vào mặt,
nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối che lấp
cả”. Những từ ngữ sắc mạnh vừa diễn tả nỗi đau thân xác, vừa diễn tả nỗi đau
trong tâm hồn. Đây là cái “rung động” đầy khát khao của bà Cả trong Đứa
con, “một tiếng thở dài sẽ thoát ra môi rồi đôi mắt ráo của bà bỗng mờ đi như
ướt lệ” khi nhìn đứa bé đang rúc đầu vào đôi vú mẹ căng sữa.
Diễn tả cảm xúc vui buồn, đau thương hạnh phúc không phải là điều mới
lạ trong văn chương. Thạch Lam không ưa tô đậm, đẩy cao cảm xúc đến tuyệt
đỉnh mà tìm kiếm lối viết giản dị, cốt yếu nói đúng cảm giác thực. Vì vậy mà
nhà văn không sáng tạo những biểu tượng mới lạ, những từ mới, nghĩa mới.
70
Ông hay sử dụng lại những biểu tượng, quán ngữ thông thường quen thuộc
như : trái tim, qủa tim, tâm hồn, từ đầu đến chân, đứt từng khúc ruột…Những
biểu tượng quán ngữ này mỗi lần đựơc sử dụng lại được sống thêm một màu
sắc cảm giác mới. Chẳng hạn trong truyện Đói trái tim được dùng với nhiều ý
nghĩa cảm xúc khác nhau. Khi thì đầy ắp tình thương vợ “một mối tình thương
tràn ngập vào tim chàng như một làn sóng”. Khi thì bị bóp nghẹt tan nát vì
phát hiện ra vợ ngoại tình “ Một cái sức nặng đè lấy quả tim làm cho chàng
ngừng thở. Hình như trong một giây phút bao nhiêu cái hi vọng sung sướng
của đời chàng tan đi mất”. Khí thì nhỏ bé chặt chội vì không chứa nổi nỗi đau
“Bao nhiêu đau đớn trong tâm can Sinh thổn thức nghẹn ngào. Quả tim không
đủ chứa nỗi đau, Sinh gục mặt xuống bàn”.
Một trong những sáng tạo và đóng góp của Thạch Lam là diễn tả cảm
giác mơ hồ mong manh, và cũng chỉ đến Thạch Lam thì cảm giác này mới
được chú ý diễn tả. Ông có cả một vốn từ vựng phong phú để diễn tả những
cảm giác này như: Băn khuăn, nao nao, bàng hoàng,nghẹn ngào, thấm thía,
khoan khoái, ngậm ngùi, nóng nảy, hồi hộp, bứt rứt, nhẹ nhõm, bâng khuâng,
man mác…Đọc văn Thạch Lam, ta có được những khám phá bất ngờ về
những cảm giác mong manh này.
Trong Dưới bóng hoàng lan, nhà văn rất chú ý diễn tả cảm giác thư thái
êm đềm của đứa cháu sau hai năm đi xa trở về ngội nhà tuổi thơ, được vương
vấn cảm xúc yêu thương ngọt dịu “Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát
như vừa tắm ở suối”; Thanh thấy lòng thư thái và vui sướng “Thanh thấy quả
tim đập rộn ràng”.
Tân trong Đứa con đầu lòng tự ngỡ ngàng với chính mình vì không tìm
thấy được cái sợi dây tình cảm máu thịt với con thơ. Khi thì chàng “tò mò
ngắm nhìn cái đầu phủ tóc đen và mượt”, lúc thì tự thú với lòng mình “Tân
không thấy cảm động như chàng tưởng và cũng không thấy có tình cảm gì đối
71
với đứa con mới đẻ”, “không nhận thấy rõ rệt có cái liên lạc gì với đứa trẻ”.
Bằng ngôn từ rất giản dị, nhà văn đã để cho nhân vật tự thú nhận với lòng
mình một cách thực nhất.
Những cảm giác mơ hồ, mong manh ta thường bắt gặp trong cuộc sống
hàng ngày nhưng lại rất khó cắt nghĩa. Đọc truyện ngắn của Thạch Lam ta
cùng nhân vật trải qua những cảm giác đó. Có khi là cảm giác “chán nản buồn
bực” vô cớ, tự nhiên “thấy khó chịu và gắt gỏng, không muốn làm việc gì”.
Tiết trời “ảm đạm và rét mướt khiến cho cái cảm giác đó rõ rệt hơn” trong
Một cơn giận. Có khi là nỗi ngượng ngùng rất thiếu nữ của một cô gái tự lấy
sáp bôi lên môi mình và ngắm mình trong chiếc gương nhỏ “cô hơi thẹn thấy
bóng mình trong đó, với đôi môi đỏ như sẫm màu” trong Cô hàng xén. Đặc
biệt nhất là cảm giác mơ hồ không hiểu của Liên trong Hai đứa trẻ “Liên
không hiểu tại sao, nhưng chị thấy lòng man mác buồn trước cái giờ khắc của
ngày tàn”. “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết” như
ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng hẹp. Những cảm giác hư thực ấy không
thể xác định rõ ràng nhưng chan chứa niềm khát khao hướng về một thế giới
đầy ánh sáng và niềm vui.
Khi diễn tả cảm giác, tâm trạng mơ hồ, Thạch Lam hay dùng những từ
ngữ mang ý nghĩa nước đôi, nước ba như: hay, hình như, thật ra, có lẽ ..chằng
hạn như: “Sau độ ấy, tính nết nàng như thay đổi hẳn hay bây giờ nàng mới
bộc lộ cái tính nết thật của nàng ra” (Tình xưa); “Tôi có một người anh họ
rất giàu và rất ngốc( có lẽ mình cho là ngốc, bởi vì hắn không sử sự như
mình; nhưng thât ra biết đâu cách ăn ở của anh ta lại khôn ngoan hơn, bởi vì
anh ta giàu và sung sướng)” (Sợi tóc).
Diễn tả cảm giác mơ hồ mong manh, nhà văn đã bộc lộ tâm hồn tinh tế
của mình. Ông biết lắng nghe những rung động thầm kín của tâm hồn con
người. Tinh tế hơn nhà văn biết lựa chọn ngôn ngữ nhuần nhị, không cầu kì để
72
diễn tả những cảm giác mơ hồ của con người. Chắc chắn rằng những cảm
nhận tinh tế đó sẽ tìm được điểm gặp gỡ với tâm hồn bạn đọc qua nhiều thế hệ
bạn đọc.
Để diễn tả cảm giác, Thạch Lam thường xuyên sử dụng những động từ
chỉ trạng thái. Đó là những động từ chỉ trạng thái như: yêu ghét, mê, thích,
cảm thấy...Khảo sát truyện của Thạch Lam ta thấy những từ sau xuất hiện trở
đi trở lại nhiều lần : thoáng thấy, bỗng thấy, đột nhiên thoáng thấy, tự nhiên
thấy, hình như thấy, không nhận thấy rõ rệt, bỗng cảm thấy, nhớ mang máng,
thoáng nghĩ, ...Chúng giúp nhà văn diễn tả cảm giác mong manh, như không
rõ nét trong nội tâm nhân vật.
Trong những từ chỉ trạng thái, từ “thấy‟ được sử dụng nhiều nhất. Nó
như một từ khóa, một thứ mật mã nghệ thuật. Kết quả thống kê cho thấy tần
số sử dụng từ “thấy” rất cao. Trong Đứa con đầu lòng có 25 lần dùng từ
“thấy”. Một đời người có 10 lần; Gió lạnh đầu mùa 18 lần..Từ “thấy” được
sử dụng với nhiều cấp độ khác nhau, thể hiện ấn tượng tinh vi, sâu sắc của
nhân vật. Từ “thấy” được dùng với nghĩa “cảm thấy’, “nhận thấy”, “nhận ra”
một điều gì đó mơ hồ sâu kín trong tâm hồn con người ví dụ: “cảm thấy cái
đầm ấm của gia đình” (Cô hàng xén), “thấy lãnh đạm vô lí” (Đứa con đầu
lòng), “Thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát” (Dưới bóng hoang lan)...
Bên cạnh đó nhà văn cũng hay sử dụng những từ chỉ trạng thái hoài niệm
suy tưởng như: nhớ, nhớ đến, nhớ lại, tưởng lại, tưởng nhớ..Ví dụ như: Trong
lúc mê sảng bác Lê “tưởng nhớ lại cuộc đời mình từ lúc còn bé đến giờ, chỉ
toàn những ngày nhọc nhằn, khổ sở” (Nhà mẹ Lê); “Tân nhớ lại cái đất ấy đã
làm đau bàn chân non nớt của chàng khi còn nhỏ ngày ngày cắp sách đi
học”(Trở về); “Nàng tưởng rằng mình sinh ra chỉ để chịu sai khiến mà thôi,
không dám phảm kháng bao giờ” (Một đời người)...Những động từ chỉ trạng
thái hoài niệm được dùng rất phù hợp trong từng hoàn cảnh. Chúng gợi mở
73
những dòng suy tưởng của nhân vật, giúp tác giả diễn tả những cảm giác đột
khởi trong tâm hồn nhân vật.
Thế giới cảm giác, cảm xúc của tâm hồn vốn rất phong phú. Nó đòi hỏi
nhà văn phải nỗ lực tìm kiếm cách thể hiện. Một trong những yếu tố dẫn tới
thành công đó là việc lựa chọn ngôn ngữ. Lựa chọn ngôn ngữ giản dị diễn tả
cảm xúc phù hợp với tâm trạng nhân vật sẽ gợi được sự đồng vọng của người
đọc.
Trong hệ thống ngôn ngữ trong các tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam
chúng ta thấy xuất hiện nhiều những tính từ diễn tả cảm giác của nhân vật về
thế giới xung quanh. Đó là những tính từ vừa miêu tả ngoại cảnh, âm thanh,
vừa miêu tả tâm trạng của nhân vật.
Trong những sáng tác của Thạch Lam không có âm thanh sôi nổi, ồn ã
mang nhịp sống xô bồ gấp gáp mà là những âm thanh rất nhẹ, rất mảnh. Âm
thanh của cuộc sống, của tự nhiên cũng có khả năng khơi gợi chiều sâu cảm
xúc. Nhân vật của ông có khả năng lắng nghe âm thanh rất tinh tế, bởi họ lắng
nghe bằng cảm giác. Ví dụ như tiếng ếch nhái kêu ran “văng vẳng”, tiếng
muối kêu “vo vo” gợi cho Liên nỗi buồn man mác trước giờ khắc ngày tàn.
Tiếng đàn bầu „bần bật trong yên lặng” của bác Xẩm làm não nùng thêm
không gian yên lặng của không gian đầy bóng tối. Những cách hoa bàng rụng
xuống vai Liên “khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một” làm tâm hồn cô “kéo dài
ra theo gió xa xôi” gọi niềm hoài vọng quá vãng” (Hai đứa trẻ). Trong một
đêm mưa gió rét hai đứa nằm trong chăn ấm bỗng lặng người đi vì “qua tiếng
gió, tiếng mưa ở ngoài ...nghe thấy tiếng chiêm chiếm như tiếng chim kêu”.
Họ thao thức trăn trở với sự tưởng tượng “có một con chim ướt át lông xù ra
vì rét, đến chỗ cửa sổ đòi vào vì nó thấy ánh sáng trong phòng ấm áp” (Tiếng
chim kêu). Hay tiếng “lá tre khô và tiếng xao xác” mà Tâm cảm nhận được
khi chân cô dẫm lên lá tre gợi bao thân quen, làm ấm lòng sau một chặng
74
đường dài với gánh hàng nặng. Những âm thanh đó được thâu nhận bằng
những tâm hồn nhạy cảm với từng tín hiệu cuộc sống. Chúng góp phần làm
nên một không gian nghệ thuật giàu chất thơ. Những tính từ được dùng trong
những trường hợp này là những từ láy tượng thanh vừa gợi âm thanh, vừa gợi
cảm xúc như: Chiêm chiếm, xao xác, vo ve, bần bật, rì rào, khe khẽ, tanh
tách... Đây là những từ láy thuần Việt mang vẻ đẹp giản dị của ngôn ngữ dân
tộc.
Những nhân vật của Thạch Lam có cách cảm nhận màu sắc, đường nét
cũng rất tinh tế. Họ ưa trải lòng với những gam màu nhẹ, gợi vẻ đẹp tươi non
mát mẻ, ưa ngắm nhìn những đường nét thanh thoát mềm mại. Đây là cách
cảm nhận khá truyền thống, khác với những gam màu sáng chói những đường
nét gân guốc bắt đầu xuất hiện trong văn chương đương thời. Nhân vật Thanh
trong “Dưới bóng hoàng lan” xốn xang với hình ảnh tươi tắn: “thiếu nữ
xinh xắn trong tà áo trắng mai tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ” “lá rau tươi
xanh ngắt trên bàn tay trắng hồng nhỏ nhắn” “giàn thiên lí pha xanh một bên
tà áo trắng”. Còn đây là vẻ đẹp thanh thoát của những cô gái trẻ trung hài hòa
với thiên nhiên, làm rung động trái tim trai trẻ: “Người cô nổi lên trên nền lá
xanh như một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo chiều gió
bay phất pho với tất cả ánh nắng, lá cây bống mát cũng hình như đang tưng
bừng dồn múa chung quanh người thiếu nữ tươi tắn ấy” (Nắng trong vườn).
Tình cảm yêu mến được dồn vào từng câu chữ, đặc biệt là những tính từ rất
gợi cảm. Đây là bức họa được tạo nên bởi gam màu sáng dịu, những nét vẽ
mềm mại làm rung động tâm hồn con người.
Cũng có khi nhà văn tạo nên bức tranh với gam màu tương phản, đường
nét ấn tượng: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng
như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cất hình rõ rệt trên
nền trời của thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm”. Lời văn với những
75
tính từ tương phản về màu sắc làm cho các đường nét, hình ảnh tự hắt chiếu
nhau làm nên bức tranh hoàng hôn ở làng quê có điểm có diện, có xa có gần,
có sáng có tối nhưng rất hài hòa.
Ngay cả những sự vật bé nhỏ hàng ngày Thạch Lam cũng rất chú ý tạo cảm
giác màu sắc đường nét. Dù đang tức tối chán nản ghê gớm Sinh (Đói) vẫn
nhìn thấy miếng bánh vợ mua bằng những đồng tiền nhơ bẩn có màu sắc hấp
dẫn “mấy miếng thịt hồng hào, mỡ trắng và đỏ như thủy tinh, mấy khoanh giò
nạc mịn màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ”. Bị cảm giác thân xác đói khát
hành hạ dữ dội, cộng với thức ăn ngon hấp dẫn ngay trước mặt kích thích
mạnh mẽ vào khướu giác, vị giác tất yếu đánh gục lòng tự trọng của anh.
Trong Tối ba mươi nhìn căn phòng với những đồ đạc cũ nát, bẩn thỉu là tự
nhìn thấy cuộc đời trơ trọi của mình.
Đọc văn Thạch Lam người đọc sẽ rất ấn tượng với nghệ thuật diễn tả
cảm giác mùi vị đầy sáng tạo. Vốn ngôn ngữ được chắt lọc qua tâm hồn yêu
cuộc sống của nhà văn được bộc lộ ở khả năng vừa miêu tả chuẩn xác cảm
giác hương vị vừa diễn tả được cảm xúc tâm trạng của nhân vật qua những
cảm nhận khướu giác đặc biệt. Ông đã góp phần làm cho văn chương ấn
tượng sâu sắc về làng quê. Đó là thứ hương vị rất mộc mạc đời thường mà đã
mấy ai lưu tâm: “Trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị lá nhãn và cả
bã mía. Một mùa âm ấm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen
thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất của quê hương
này”.(Hai đứa trẻ). Mùi vị của quê hương lam lũ có sức lay động vào chiều
sâu tâm hồn, làm cho kẻ mất gốc phải bồi hồi nhớ lại tuổi thơ “Một cái mùi
âm ấm bốc lên, cái mùi đặc biệt, hình như là mùi đất, mùi rác đốt. Tân nhớ
mãi rõ rệt những ngày còn trẻ” (Trở về). Hương vị của làng quê thân thuộc
làm cho Tâm ấm lòng sau một ngày bươn trải vất vả “mùi bèo ở dưới ao và
mùi rạ ướt đưa lên âm ẩm”, “mùi phân trâu nồng nặc sặc ngay vào cổ”, “mùi
76
rác và cỏ ướt thoang thoảng bốc lên, mùi quen thuộc của quê hương và đất
màu khiến Tâm thấy dễ chịu và thêm can đảm” (Cô hàng xén).
Khi miêu tả mùi đất quê, Thạch Lam có sử dụng tính từ chỉ mùi vị kết
hợp với động từ chỉ trạng thái gợi cảm giác nhẹ, êm dịu, mỏng mảnh. Đặc biệt
nhà văn đã tính từ hóa danh từ, biến danh từ vốn để gọi tên sự vật thành những
tính từ chỉ cảm giác như: mùi bèo, mùi rạ ướt, mùi rơm rác, mùi phân trâu,
mùi ẩm, mùi rác đốt...Với việc tính từ hóa các danh từ như vậy sẽ làm cho
ngôn ngữ trong truyện ngắn của Thạch Lam trở nên gần gũi, tạo cảm giác về
mùi quê hương vốn rất quen thuộc nnhưng không ai để ý, tạo sự quyến rũ và
rất riêng trong ngôn ngữ của nhà văn.
Khi miêu tả tình yêu của các đôi nam nữ, Thạch Lam hay để cho họ gặp
nhau trong những không gian thơ mộng và đầy hương hoa. Hương hoa ngọt
ngào quyến rũ vừa gợi cảm giác thơ mộng, vừa gợi sự trong trẻo của tình yêu.
Tình yêu giữa Bình và Lan (Tình xưa) chớm nở giữa không gian vương vấn
“mùi hoa thơm nhẹ và sắc của hoa hoàng lan thoang thoảng ở ngoài”. Thanh
(Dưới bóng hoàng lan) với cô bạn gái từ thuở nhỏ nhận ra những rung động
của trái tim non trẻ trong không gian thoang thoảng hoa hoàng lan “Có lúc
gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng như có giắt hoa hoàng lan.
Nhưng hoa chưa rụng, vẫn còn tươi xanh trên cành...mùi hoàng lan thoang
thoảng bay trong gió ngát”. Những búp non xanh như mối tình còn e ấp chưâ
chín hẳn, mùi hoa thoang thoảng giăng mắc trong không gian rất phù hợp với
“có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâua đây, khiến chàng vướng phải”. Mối tình
dưới ánh trăng của Tuấn và Mai (Đêm trăng sáng) nồng nàn hương hoa “Gió
thơm nhẹ và thoang thoảng tới bông hồng nhung đẫm tan vào đêm tối...cánh
hồng nhung đen thẫm...đẫm hương nồng và ân ái”. Hương thơm tinh khôi đó
càng tôn lên vẻ lãng mạn thơ mộng của tình yêu.
77
Bóng tối là hình ảnh thiên nhiên thường gặp nhất trong các truyện ngắn
của Thạch Lam, có giá trị như một gam màu chủ đạo. Có tới 14/23 truyện
ngắn xuất hiện hình ảnh bóng tối. Đó thường là sự sống trong cái vẻ lay lắt tàn
lụi. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là là một ví dụ về nghệ thuật tả bóng tối sinh
động, gợi cảm với nhiều tính từ khác nhau về mức độ phẩm chất về sắc thái
biểu đạt, không lặp lại. Khi hoàng hôn xuống “trong cửa hàng hơi tối”, “đôi
mắt chị bóng tốii ngập đầy”. Với hai tính từ “hơi tối” và “ngập đầy” đã tạo
cho người đọc ấn tượng về cảm giác ngày đã tàn và bóng đêm sắp ập tràn đến.
Khi trời bắt đầu về đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và gió thoảng mát
“Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Đêm càng khuya,
bóng tối càng sâu rộng: “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường
qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Tính từ miêu tả
theo hướng gia tăng tính chất gam màu, từ hơi tối, ngập đầy, đến chứa đầy,
thăm thẳm, sẫm đen. Chúng gợi bước đi từ chập tối đến nửa đêm. Đêm tối
thăm thẳm mênh mông, yên tĩnh và thân thuộc.
Trong truyện Tối ba mươi kể về nỗi nhục của cô gái nhà săm, bóng tối
gắn với cái lạnh tê tái. “Mưa vẫn bay tả tơi hình như bóng tối ở khắp nơi dồn
lại quang đãng phố hẹp này. Trên hè ướt át và nhớp nháp nháp bùn, không
một bóng người qua lại. Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu đâu ở khắp
cả các phố Hà Nội đêm nay”. Câu văn có sự kết hợp hài hòa giữa tính từ chỉ
bóng tối và tính từ chỉ cảm giác ướt lạnh. Bóng tối thiên nhiên thành bóng tối
tâm trạng, cảm giác. Đó là cảm giác “tả tơi, ướt át, nhớp nháp, vắng lạnh” hòa
quện vào nhau trong cái tối tăm của trời đất. Bóng tối buốt lạnh như chà xát
thêm vào bao nỗi đau tê tái của hai cô gái tội nghiệp.
Ở Người lính cũ, là bóng cây dày đen, đặc quánh. Trong đêm khuya,
“trời rét như cắt ruột mà gió lại thổi mạnh”. “Vừng thẫm đen của một cây
nhãn, nổi lên nền trời đen nhạt hơn”. “Trong quán tối như mực” “Chung
78
quanh chúng tôi cái đen tối của đêm khuya dầy dằng dặc”. Sự kết hợp giữa
những tính từ chỉ đêm đen và giá rét cùng với những thành ngữ “tối đen như
mực”, rét như cắt ruột” tô đậm cảm giác về màn đêm mênh mông sâu thẳm
lạnh lẽo bao trùm lên cuộc đời có lúc thăng hoa có lúc ngập chìm trong đêm
tối.
Có thể nói, với hệ thống ngôn ngữ diễn tả những cảm giác hướng ngoại,
Thạch Lam đã mở cánh cửa đi vào thế giới tâm hồn nhân vật góp phần soi
chiếu và lí giải những uẩn khúc, những biến đổi tinh vi trong tâm hồn nhân
vật. Nhà văn rất chú ý lựa chọn những tính từ chỉ âm thanh, màu sắc, đường
nét, mùi vị…khai thác triệt để khả năng gợi tả của lớp ngôn ngữ thuần Việt
vào văn chương thay thế cho lớp từ Hán Việt vốn đã có sức ảnh hưởng lâu
nay.
4.1.2 Những sáng tạo về mặt từ vựng.
Từ ngữ có ý nghĩa thẩm mĩ cao khi chúng được tổ chức, kết hợp một
cách sáng tạo thể hiện một nội dung đã xác định. Thạch Lam hay tạo nên
những kết hợp từ có khả năng khơi gợi cảm xúc, liên tưởng.
Qua những cách đặt tên cho những truyện ngắn của mình cũng là một
sáng tạo mang tính thẩm mỹ như: Trong bóng tối buổi chiều, Gió lạnh đầu
mùa, Hai lần chết, Nắng trong vườn, Bóng người xưa, Tình xưa…đều có
khả năng gợi được những ấn tượng về không khí chung của truyện. Tên đầu
đề có giá trị như một nốt nhạc dạo đầu đưa người đọc đến với những giai điệu
trầm lắng mơ hồ của tác phẩm.
Trong ngôn ngữ văn chương của Thạch Lam còn có nhiều kết hợp gợi
lên nhiều sự liên tưởng thay thế. Ví dụ “Căn nhà với thửa vườn này đối với
chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành…”(Dưới bóng hoàng lan). Việc kết
hợp giữa tính từ chỉ cảm giác và tính từ chỉ phẩm chất, làm cho tổ hợp từ có
thêm một nét nghĩa mới rất ấn tượng. Đó là ấn tượng về không gian, về ngôi
79
nhà rất bình yên, chan chứa tình yêu thương. Kể về cô hàng xén nhà văn viết :
“Chiếc đòn gánh càng cong xuống và rền rỉ” (Cô hàng xén). Trong câu văn
có sự sáng tạo kết hợp giữa từ tượng hình và tượng thanh tạo nên một ẩn dụ về
nỗi vất vả chồng chất lên đôi vai người phụ nữ đi lấy chồng, vừa lo việc nhà
chồng, vừa lo nuôi các em ăn học. Trong Tối ba mươi, nhà văn diễn tả cảm
giác tủi nhục bơ vơ của hai cô gái bán hoa bằng việc kết hợp những tính từ chỉ
nội tâm và tính từ chỉ ngoại cảnh quen thuộc. “Vẻ lạnh lẽo của căn phòng bao
bọc lấy Liên, khiến cái vui mong manh sắp tắt”, “Liên nghĩ đến sự trơ trọi
của đời mình”, “những thất vọng chán chường’, “Mưa bụi vẫn bay tơi
tả…trên hè phố ướt át và nhớp nháp bùn”. Nhưng khi đọc kĩ những từ ngữ
quen thuộc đó lại mang một lớp nghĩa mới. Chúng không chỉ diễn tả tâm trạng
mà còn tạo ấn tượng về số phân nhân vật. Đó là thân phận lạc loài, tả tơi, trơ
trọi giữa cuộc đời. Những từ ngữ gợi cảm đó cứa sâu vào lòng người nỗi khắc
khoải, trăn trở về số phận trớ trêu của những con người dưới đáy xã hội.
Trong những truyện ngắn của mình, Thạch Lam cũng hay sử dụng những
ẩn dụ khá tài hoa. Chúng có thể gọi tên được những trạng thái cảm xúc mơ hồ
mà nếu chỉ dùng tính từ, động từ chỉ trạng thái đơn thuần không thể diễn tả
nổi. Ví dụ chỉ cần một ẩn dụ từ vựng trong câu: “Có cái gì dịu ngọt dăng tơ
đâu đây khiến chàng vướng phải” (Dưới bóng hoàng lan) đã diễn tả rất tinh
tế trạng thái cảm xúc mong manh như hương hoa trong tâm hồn trai trẻ của
Thanh vừa chớm nở cảm xúc yêu thương. Con có nhiều ẩn dụ trở thành những
biểu tượng có giá trị như: “những vật tốt đẹp bày trong tủ kính các cửa hàng”
(Một cuộc đời); “ngọn đèn con của chị Tý và bóng tối” (Hai đứa trẻ); cái chết
lần thứ hai của Dung(Hai lần chết); “sợi tóc chia địa giới” giữa hiền lương và
tội lỗi (Sợi tóc)
Nhà văn cũng hay dùng những so sánh vốn là quen thuộc như “cằn cỗi
héo hắt lại như một cái cây khô” (Đứa con), “đau đớn uất ức như đứt từng
80