1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 110 trang )


chiến vĩ đại của toàn dân tộc. Tình yêu ấy đã chắp cánh cho hồn thơ bay cao, bay

xa, không chỉ với những độc giả trong nước mà còn đến những độc giả yêu mến thơ

Trần Đăng Khoa ở nước ngoài. Khi nói đến sức hấp dẫn trong thơ Trần Đăng Khoa,

N.Niculin đã nhận xét: “Cậu bé Trần Đăng Khoa đã thu hút độc giả một cách bất

ngờ bằng sự cảm thụ thi ca những gì bao quanh mỗi người Việt Nam từ thuở nhỏ

bằng sự chân chất trầm lắng, sự giản dị và tính nhạc điệu tuyệt diệu của thơ” [37, tr.

131]. Nhà nghiên cứu Vũ Nho đã cho rằng yếu tố đầu tiên tạo nên sức hấp dẫn của

thơ Trần Đăng Khoa chính là kiểu xưng hô: “Trần Đăng Khoa làm cho người ta

ngạc nhiên, khoái trá vì cách quan sát tinh tế, cách nhìn nhận sự vật hồn nhiên, cách

liên tưởng rất riêng, cùng với cách nói lên những gì nghĩ ra, cảm nhận và trông thấy.

Một phần làm nên cái gọi là giọng điệu thể hiện trong cách xưng hô” [37, tr 11].

Hay nói một cách khác, đó chính là cái tôi trữ tình xưng “em” của cậu bé thần đồng,

ở đây không phải là “em” trong mối quan hệ tình cảm “Em – Anh” thông thường

mà là lời tâm sự bằng thơ của một em bé nông thôn khi miêu tả cuộc sống hàng

ngày đang diễn ra xung quanh mình.

Đọc thơ Trần Đăng Khoa, chúng ta đều bất ngờ bởi cách xưng hô lạ mà quen

“mày” – “tao”, nó vừa in đậm cái tươi tắn, hồn nhiên của trẻ thơ, lại vừa có cái

suồng sã, dân dã đời thường. Số lượng những bài thơ có cách xưng hô này được lặp

lại khá nhiều, từ bài “Sao không về Vàng ơi” cho đến “Đánh tam cúc”, “Nói với con

gà mái”, “Nhớ bạn”… Điều lạ là với cách xưng hô này không hề gây nên sự phản

cảm cho người đọc, thậm chí họ còn rất hứng thú với giọng điệu tự nhiên trong từng

câu thơ: Tao đi học về nhà - Là mày chạy xồ ra - Đầu tiên mày rối rít - Cái đuôi

mừng ngoáy tít (Sao không về Vàng ơi). Những cảm xúc người đọc nhận thấy trong

những câu thơ như thế này không phải bởi sự trau chuốt, tinh tế mà bởi những tình

cảm chân thực của tác giả, đó là tình yêu thương, sự gắn bó gần gũi như máu thịt

với những sự vật, hiện tượng xung quanh. Trần Đăng Khoa nhìn những việc đó

bằng cả tâm hồn thơ trẻ với những cảm xúc trong sáng nhất, chính những tình cảm

ấy đã thổi hồn vào thơ, giúp chúng đi sâu vào tâm hồn người đọc bởi những thanh

âm rất gần gũi. Điều này cũng lí giải cho việc tại sao những vần thơ thiếu nhi của



37



Trần Đăng Khoa không chỉ nhận được sự yêu mến của các bạn cùng trang lứa mà

còn nhận được sự quan tâm, những tình cảm gắn bó từ những độc giả “người lớn”.

Bắt đầu làm thơ với một kiểu xưng hô lạ mà quen, quen vì nó vẫn thường diễn ra

hàng ngày trong từng câu chuyện cuộc sống, nhưng lạ là bởi trước cậu bé chưa có ai

dám đưa nó vào trong thơ, làm được điều này có lẽ chỉ có nhà thơ trẻ con – Người

chưa đủ tuổi để biết sợ, biết dừng chân trước những quy luật bất thành văn trong thơ

ca. Âý vậy mà Trần Đăng Khoa đã làm được, thậm chí còn thực hiện thành công,

điều này cũng là một yếu tố giúp cậu bé có thêm những thuận lợi khi được so sánh

thơ mình với những tác giả thiếu nhi cùng thời. Tuy nhiên, không phải lúc nào cậu

bé cũng xưng “mày” – “tao”, khi lớn dần lên thì cách xưng hô này cũng dần dần rời

bỏ cậu bé. Trần Đăng Khoa vẫn gọi những con vật xung quanh mình là “mày”

nhưng không còn xưng “tao” nữa, thay vào đó là “ta”. Bước chuyển tiếp này được

thể hiện rõ nhất qua bài “Câu cá”

Cá cá chúng mày ơi

Dù con to con nhỏ

Nếu chạm vào mồi ta

Đều nằm khoèo trong giỏ

Và đến năm 1972, trong bài “Bến đò”, Trần Đăng Khoa đã lần đầu tiên xưng

“ta” – Một chữ “Ta” trọn vẹn, không chỉ là việc xưng hô với các con vật nữa. Chỉ

có điều, cái “Ta” này đến với người đọc với những nỗi niềm ngổn ngang của tác

giả, vừa kiêu hãnh lại vừa xót xa. Cả một quá trình chuyển đổi trong cách xưng hô

đã thể hiện sự trưởng thành, lớn lên từng ngày của nhà thơ nhí, từ “cháu” đến “em”

và nay là “ta” – Khi viết bài thơ này, có thể bản thân Trần Đăng Khoa chưa ý thức

hết được ý nghĩa của cái ta, cái tôi trọn vẹn nhưng rõ ràng lúc này nhà thơ không

còn bé nữa, đã bắt đầu có những suy nghĩ trưởng thành hơn, biết nhìn lại những kỉ

niệm đã qua, đã biết xót xa cho một tuổi thơ một đi không trở lại

Ta thèm nhìn những kỉ niệm ấu thơ

…Gió thổi cồn cào mặt nước

Mất một nỗi gì không thể tìm lại được



38



Ta đi lòng vẫn ở nơi đây

Ai cũng chỉ có một lần

Cái thuở thơ ngây

Đọc thơ Trần Đăng Khoa, chúng ta nhận thấy một điều: Càng nhỏ tuổi thơ càng

hồn nhiên. Sự hồn nhiên ấy là một đặc tính rất quan trọng tạo nên sự thành công

trong thơ thiếu nhi. Chỉ có cái nhìn ấy, đôi tai ấy mới có thể nghe thấy, cảm thấy

những điều kì diệu mà không ai thấy được khi đã trở thành người lớn. Chính sự hồn

nhiên, trong trẻo ấy đã biến những thứ tưởng như đơn giản, nhàm chán trở thành

những điều mới mẻ, đầy sự non tơ với ánh sáng muôn màu. Khi làm thơ, cậu bé

chưa được đi đâu xa, thế giới thơ ca của cậu bé chỉ giới hạn từ góc sân ra đến cánh

đồng, đến khoảng trời xanh biếc mênh mông, rộng lớn. Đấy là một thế giới riêng

đầy bí ẩn, huyền diệu song cũng vô cùng gần gũi, thân thương. Bởi thế mới có: Cỏ

gà rung tai – Nghe – Bụi tre – Tần ngần – Gỡ tóc – Hàng bưởi – Đu đưa – Bế lũ

con – Đầu tròn – Trọc lóc (Mưa). Những vật vô tri vô giác đến với thơ Trần Đăng

Khoa đều trở thành những người bạn nhỏ đầy lí thú. Dừa ham chơi, dễ gần “đón

gió, gọi trăng”, na nhõng nhẽo, thơ ngây, cau như cậu bé con trong ngày hè đứng

gió “phành phạch quạt liên hồi”… Yêu thiên nhiên xung quanh mình, cậu bé đã thổi

vào chúng linh hồn, thế giới tự nhiên ấy là những người bạn thân thiết với đầy đủ

dáng vẻ và màu sắc. Đây là cảnh chị tre đang làm duyên nơi đồng chiêm với bờ ao

quen thuộc

Chị tre chải tóc bên ao

Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương

(Buổi sáng nhà em)

Có khi lại là một khung cảnh rộng lớn với nhiều người, nhiều việc, với nhiều tư

thế hoạt động

Những chị lúa phất phơ bím tóc

Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học

Đàn cò áo trắng

Khiêng nắng qua sông



39



Cô gió chăn mây trên đồng

Bác mặt trời đạp xe qua núi

(Em kể chuyện này)

Những gì bình thường nhất, đơn giản nhất, khi vào thơ Trần Đăng Khoa cũng

trở nên mới mẻ, hấp dẫn, “ đầy ánh sáng và hương thơm, đầy non tơ và quyến rũ”

[37, tr. 15). Từ việc xưng “cháu”, xưng “em” cậu bé đã nâng các sự vật ấy lên cao

hơn mình một bậc, và từ góc độ khiêm tốn ấy cậu bé dễ dàng thả hồn mình vào với

trí tưởng tượng, liên tưởng hơn. Những cây cối quanh vườn, những con vật sống

trong sân nhà đều được Khoa nhìn bằng con mắt nhân hóa, bởi vậy mới có những

“chị tre”, “”chị lúa”, “cô gió”, “bác mặt trời”…vô cùng độc đáo và đáng yêu trong

thơ. Nhà thơ thiếu nhi nhìn tinh, nghe thính nhưng sức nhìn đó đâu chỉ nhờ vào mắt,

sức nghe đó đâu chỉ nhờ vào tai. Nhìn thấy thóc “thở hí hóp trên sân” là cái nhìn

cộng với sự liên tưởng và tưởng tượng, nghe thấy “tiếng rơi rất mỏng như là rơi

nghiêng” là sức nghe được nhân lên bởi sự tưởng tượng. Thơ Trần Đăng Khoa là sự

kết hợp nhìn với nghe, nghe với nhìn, nghe nhìn với liên tưởng, tưởng tượng để tạo

ra sự chuyển đổi cảm giác, tạo ra sự mơ hồ, sự tinh tế thú vị

Nghe hàng chuối vườn em

Gió trở mình trăn trở

Chuột chạy giàn bí đỏ

Loáng vỡ ánh trăng vàng

(Nửa đêm tỉnh giấc)

Trong những trang viết về thiên nhiên, Trần Đăng Khoa đã để hồn thơ của mình

tự do bay bổng, len lỏi, hòa quyện vào những ngóc nghách sâu kín nhất trong linh

hồn của trời đất, cỏ cây rồi nắm bắt những thần sắc của nó, nhào nặn bằng trí tưởng

tượng để vẽ nên những bức tranh thiên nhiên sống động với những hình khối đa

dạng và ngập tràn màu sắc. Cậu bé quan sát rất tỉ mỉ và biết cách miêu tả chính xác

đặc điểm của từng con vật, những nhận xét luôn tạo cho người đọc cảm giác thú vị

Mụ gà cục tác như điên

Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi



40



(Buổi sáng nhà em)

Trần Đăng Khoa còn biết dựa trên những đặc điểm hình dạng của những con vật

để tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo

Tôi biết từng đoàn sứa

Giương ô đi trong hội lân tinh

(Lời của than)

Hay như việc quan sát lũ kiến đang tha mồi về tổ, cấu bé liên tưởng ngay đến

một đám ma với những nghi thức trọng thể. Từ việc kiến đất cầm hương đi trước

đến các loài kiến mỗi loài có một nhiệm vụ khác nhau, điều này chứng tỏ rằng trong

thực tế cậu bé đã từng chứng kiến một đám tang có thật, bởi thế khi nhìn đàn kiến

đang tha giun về tổ cậu bé đã liên tưởng ngay đến một đám tang giống như đám

tang mình đã được quan sát và miêu tả lại bằng ngòi bút nhân cách hóa vô cùng

sáng tạo

Cầm hương kiến đất bạc đầu

Khóc than kiến cánh khoác màu áo tang

Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng

Kiến kim chống gậy, kiến càng nặng vai

(Đám ma bác giun)

Đây được xem là một trong những bài thơ độc đáo nhất của Trần Đăng Khoa,

độc đáo bởi điều này chứng tỏ cậu bé không chỉ có một trí liên tưởng sáng tạo mà

còn bởi cậu bé đã soi vào sự việc tưởng như bình thường đối với người lớn những

suy nghĩ mang đậm tinh thần nhân văn. Việc đàn kiến đang tha xác giun về tổ là có

thật, tuy nhiên Trần Đăng Khoa không nhìn hiện tượng đấu tranh sinh tồn ấy bằng

con mắt hiện thực phê phán mà đã đưa vào đó những suy nghĩ mang tính nhân văn

hóa, khiến sự thật trở nên có ý nghĩa. Đôi khi sự liên tưởng của nhà thơ thiếu nhi

này khiến người đọc ngạc nhiên bởi sự tinh tế đến kì diệu. Trần Đăng Khoa tìm

thấy được mối liên hệ tinh vi giữa tiếng gà gáy trong buổi sớm mai với những hiện

tượng báo hiệu cho sự sống đang sinh sôi. Tiếng gà gáy ò ó o đã giục quả na “mở

mắt tròn xoe”, “hàng tre đâm măng nhọn hoắt”, “hạt đậu nảy mầm”, “bông lúa uốn



41



câu”…Tất cả chuỗi hiện tượng ấy đều ở thời điểm bắt đầu bừng dậy của vũ trụ, “ta

thấy cả vũ trụ như bừng tỉnh, cả vũ trụ lên đường, cả vũ trụ hành quân”. Người đọc

luôn ngạc nhiên, thích thú trước những phát hiện của Trần Đăng Khoa, cậu bé nhìn

thấy vật thật trong kiểu soi sương của trẻ con, thậm chí cậu còn nhìn thấy những vật

không có thật, không có hình hài, vóc dáng…Kiểu nhìn của trẻ thơ như nhìn qua

kính vạn hoa, chỉ khẽ lay một chút thôi là đã thấy bao điều mới lạ. Ở tuổi của cậu bé

lúc ấy, sức nghe, sức nhìn đều có sự phát triển vượt bậc. Từ tiếng kêu của con sâu,

từ “tiếng sương đang đọng mật” đến tiếng “rì rầm rặng duối”…tất cả đều được cảm

nhận thật tinh tế. Sự phát hiện tinh tế nhất của Trần Đăng Khoa được thể hiện trong

bài “Hạt gạo làng ta”. Trong hạt gạo nhỏ bé ấy, Khoa cảm nhận được vị ngọt,

hương thơm, thậm chí là âm thanh, có không gian, có thời gian, có cả nắng mưa gió

bão…tất cả những điều ấy đã tạo nên hạt gạo làng – Hạt vàng trong thơ ca Việt

Nam.

Ở mỗi một bài thơ, Trần Đăng Khoa đều có cách nhìn, cách cảm, cách nghe

riêng, nhất là cách tưởng tượng độc đáo và những sự liên tưởng bất ngờ. Khi Trần

Đăng Khoa là một cậu bé học trò, sự nhạy cảm, đa cảm và những yếu tố khác đã có

sự kết hợp khăng khít với nhau, tạo nên những câu thơ mang đầy cảm xúc. Năng

khiếu thơ đặc biệt đã giúp cậu bé sáng tạo nên những vần thơ có sức sống bền bỉ

vượt qua khoảng cách về không gian và thời gian. Có thể thấy trong thơ Trần Đăng

Khoa, bên cạnh những sáng tạo vẫn thấp thoáng dấu ấn của những người đi trước,

những ảnh hưởng từ ca dao, tục ngữ, những tác phẩm văn học cậu bé đã được nghe,

được đọc. Tư duy của một nhà thơ thiếu nhi được thể hiện rất rõ ràng thông qua một

hệ thống các hình ảnh sự vật, hiện tượng được nhân hóa. Từ cây cối cho đến con vật

đều được gọi tên như những người bạn, người thân trong gia đình. Yếu tố thần tiên,

thần thoại trong những câu chuyện cổ tích được nghe, được đọc nay đã được cậu bé

vận dụng trong những tác phẩm đầu tay của mình. Từ việc đưa yếu tố thần tiên vào

thơ, Trần Đăng Khoa đã thỏa sức cho trí tưởng tượng, liên tưởng bay cao bay xa,

tạo nên một thế giới lung linh, ngập tràn màu sắc. Trong thế giới của trí tưởng

tượng ấy, cậu bé không phân biệt đâu là người đâu là vật, vật và người có vị trí như



42



nhau, đều được gọi tên đầy yêu thương, trìu mến, tất cả đều được kết nối với hiện

thực bằng sợ dây liên tưởng mong manh nhưng bền vững. Từ trước đến nay, việc sử

dụng nghệ thuật nhân hóa trong thơ ca đã trở thành một truyền thống, tuy nhiên

chưa có một nhà thơ nào tạo dựng được một hệ thống các hình tượng sự vật được

nhân cách hóa phong phú và độc đáo như Trần Đăng Khoa. Sự phong phú và độc

đáo ấy chỉ có thể xuất hiện trong tư duy của trẻ thơ – Nơi tâm hồn các em gắn bó

thân thiết với những câu chuyện cổ dân gian, khi mà thế giới xung quanh luôn ẩn

chứa những điều mới mẻ đang chờ đợi các em khám phá. Đối với riêng Trần Đăng

Khoa, mọi thứ không chỉ dừng lại ở đó. Tuy nhỏ tuổi nhưng cậu bé đã biết chọn lọc

cái hay, cái tinh hoa của người khác để biến chúng thành những sáng tạo mới mẻ

của mình theo cách của riêng mình. Trần Đăng Khoa đã mang đến hương vị đồng

nội Việt Nam hết sức đậm đà qua thứ ngôn ngữ trong trẻo, hồn nhiên và ngộ nghĩnh

được thể hiện vô cùng nhuần nhị trong thơ. “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám

ảnh” [13, tr. 7], Trần Đăng Khoa đã gửi gắm những rung cảm của tâm hồn, của trái

tim mình trước cuộc sống, Khoa đã gửi trong thơ mình một số vốn giàu có về nhạc

điệu, âm thanh, màu sắc…Mỗi bài thơ đều trở thành một bức tranh được vẽ lên

bằng những hình ảnh thơ, hình tượng thơ sinh động, hồn nhiên khiến bao thế hệ

người đọc luôn cảm thấy sững sờ, thú vị như khi có cơ hội được tìm về với tuổi thơ.

2. CÁI TÔI CHIẾN SĨ VÀ SỰ GIA TĂNG YẾU TỐ LUẬN LÝ, YẾU TỐ NỘI

CẢM

Trong suốt thời gian làm thơ thời nhỏ, tư duy thơ của Trần Đăng Khoa là tư duy

luôn hướng ngoại của một cậu bé với cái tôi xưng “em” rất hồn nhiên, ngây thơ.

Nhưng đến giai đoạn sau này, khi đã tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, dần

trưởng thành trong quân ngũ, Trần Đăng Khoa vẫn làm thơ nhưng làm thơ với một

tư duy hoàn toàn mới mẻ. Cái tôi cá nhân trong thơ Trần Đăng Khoa lúc này đã

vượt xa khỏi lối xưng “em” của ngày xưa, thay vào đó là chân dung một cái tôi

chiến sĩ – cái tôi cá nhân, mang đầy những tâm tư, suy nghĩ trước cuộc sống rộng

lớn. Những chiêm nghiệm, những suy tư là dấu ấn của sự trưởng thành, khi trở



43



thành một nhà thơ khoác áo lính, Trần Đăng Khoa đã đưa cuộc đời mình sang một

lối rẽ khác. Cuộc đời người lính, trách nhiệm của một công dân, cuộc sống với bao

biến động đã biến thơ Trần Đăng Khoa nặng trĩu những suy tư, trăn trở. Nói đến cái

tôi chiến sĩ của Trần Đăng Khoa chủ yếu là nói đến tập “Bên cửa sổ máy bay”.

Trong tập thơ này, bên cạnh những bài viết dành tặng gia đình, quê hương, Trần

Đăng Khoa còn dành một góc cho riêng mình với những bài thơ mang đậm phong

cách trữ tình, thể hiện một cái tôi rất mới mẻ, khác với hình ảnh một cậu bé trong

“góc sân và khoảng trời” năm nào.

Cái tôi chiến sĩ được thể hiện trong thơ Trần Đăng Khoa bởi hai nội dung chủ

yếu là yếu tố luận lý và yếu tố nội cảm. Không còn như ngày bé là làm thơ để chơi

nữa, lúc này Trần Đăng Khoa viết thơ để giãi bày tâm sự của bản thân cũng như của

những người đồng đội trên đảo Trường Sa. Yếu tố nội cảm được thể hiện rõ nét

trong những bài thơ tình của Trần Đăng Khoa, gọi là thơ tình người lính là bởi vì

thơ tuy viết về tình yêu nhưng tình yêu ấy rất trong sáng và mang đậm chất lính.

Trong những câu thơ như

Miên man anh lại về nhà

Giếng thu với mảnh trăng ngà có nhau

Tưởng như em mới gội đầu

Gương con treo vội lệch sau cột nhà

(Hoa xương rồng)

Hay như

Tất cả sẽ qua đi. Chỉ tình yêu còn lại

Tình yêu giữ cho ta mãi mãi là người

Nếu thế giới này không còn tình yêu nữa

Thì biết đâu trái đất đã tan rồi…

Đề cao tình yêu cũng như các cung bậc của tình yêu, thơ Trần Đăng Khoa cho

thấy sự khác biệt giữa hai mảnh ghép trong cuộc đời mình: tình yêu quê hương, đất

nước và tình yêu đôi lứa sâu sắc, thủy chung. Nếu như yếu tố nội cảm chủ yếu được

thể hiện trong cả các bài thơ tình và một số ít các bài thơ viết về biển đảo, thì yếu tố



44



luận lý hầu như biến mất trong các bài thơ tình và chỉ xuất hiện trong những bài thơ

viết về biển đảo. Hai yếu tố này đã có lần được nhà thơ đặt cạnh nhau trong bài

“Thơ tình người lính biển”

Anh ra khơi

Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng

Phút chia tay anh dạo trên bến cảng

Biển một bên và em một bên

Hình ảnh “biển một bên” và “em một bên” như một sự đối xứng cân bằng, biển

mênh mông – em thì nhỏ bé, biển là khát vọng tuổi trẻ - em là chốn bình yên nơi

hậu phương. Cuộc chia tay trở nên lặng lẽ hơn bởi người lính ấy chợt nhận ra nếu

như một ngày kia vòm trời trong xanh ấy không còn em và cũng không còn biển

nữa, lúc ấy sẽ chỉ còn “mình anh với cỏ”. Và dù chỉ còn “mình anh với cỏ” như vậy

thì anh vẫn khắc ghi trong lòng mình hình ảnh đẹp nhất của giây phút chia tay hôm

nay: em một bên và biển một bên. Suy nghĩ sâu sắc cũng như ý thức được rõ ràng

trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trước Tổ quốc, nhà thơ đã lồng ghép khéo léo cái

tôi chức năng mang tính luận lý và cái tôi trữ tình đầy cảm xúc đặt bên cạnh nhau.

Qủa thực, đây là những câu thơ hay và độc đáo khi viết về đề tài người lính. Yếu tố

luận lý là một trong những đặc điểm nổi bật nhất khi bàn về cái tôi chiến sĩ của Trần

Đăng Khoa. Cái tôi ấy đã cho thấy một tinh thần, trách nhiệm cao độ, luôn hướng

cuộc sống của mình đến những lí tưởng của thời đại, cho dù cuộc sống ấy luôn bộn

bề những khó khăn, thiếu thốn

Chúng tôi rất đông, mười tám, đôi mươi

Sâu sắc và vô tư như bầu trời

Tỉnh táo và đắm say như bầu trời

Màu áo lính hát niềm tâm sự lính

(Hát về hòn đảo chìm)

Nói về mình cũng là nói về những người đồng đội đang ngày đêm bám trụ trên

từng hòn đảo lớn nhỏ ngoài khơi xa, canh giữ biển đảo Tổ quốc, tuy còn rất trẻ

nhưng bản thân nhà thơ cũng như những người bạn của mình đều ý thức được



45



những nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi ra đến nơi đảo xa này. Những câu thơ

của Trần Đăng Khoa tuy đề cao yếu tố luận lý nhưng lại không hề khô cứng, đó là

bởi vì nhà thơ luôn biết cân bằng giữa yếu tố lí luận và hiện thực cuộc sống. Những

người lính nơi đây chỉ mười tám, đôi mươi, luôn ý thức được nhiệm vụ cao cả của

mình trước Tổ quốc và dân tộc, nhưng cũng chính những người lính ấy vẫn không

hề mất đi sự hồn nhiên, vô tư của lứa tuổi. Bởi vậy mới có chuyện hai yếu tố tưởng

chừng như vô lí nhưng vẫn tồn tại song song bên cạnh nhau: sâu sắc – vô tư, tỉnh

táo – đắm say…Yếu tố luận lý còn được thể hiện ở góc độ mang tính nhân văn cao

hơn nữa, đó là việc nhà thơ luôn băn khoăn cho những câu hỏi mang đầy tính hiện

thực: Ngày mai ai hi sinh? Đêm nay ta không biết. Ngày mai là thời gian chỉ đến

một tương lai gần, vẫn biết sống chết sẽ chẳng là gì khi đã nguyện dâng hiến đời

mình cho Tổ quốc, nhưng nhà thơ vẫn trăn trở:

Ngày mai, ngày mai, nếu mình không trở về

Cậu có nhớ lối rẽ vào nhà mình không cậu

Cúc tần xanh, tơ cuộc vàng lưng giậu

Mẹ mình thường đứng đó nhìn ra

(Ngày mai ra trận)

Và rồi, cũng trong mạch cảm xúc mang đầy tính nội cảm của cái tôi đang vận

động ấy, Trần Đăng Khoa đã có những dòng tâm sự gửi mẹ với những lời thơ ngập

tràn tình yêu thương của một người con xa nhà cũng như tinh thần trách nhiệm của

một người lính trưởng thành đối với đất nước. Mất mát là điều khó tránh khỏi,

nhưng sự hi sinh ấy là cần thiết để quê hương, đất nước không còn cảnh đạn bom,

để “căn nhà trở lại yên tĩnh – dưới bóng cây bảng lảng hoàng hôn”, để mẹ có thể

lắng nghe tiếng bước chân của bầy trẻ nhỏ đang ríu rít được cắp sách đến trường.

Mẹ ơi, có thể trong cuộc chiến đấu này

Con sẽ ngã xuống

Ngã xuống bình thường

Như bao đồng đội của con

Để mái nhà gianh mẹ được yên ả



46



Dưới sắc nắng vàng

(Mẹ)

Yếu tố nội cảm luôn thường trực trong suy nghĩ của nhà thơ, nhất là trong

những bài thơ viết về quê hương. Người lính năm nào ra đi từ làng quê Điền Trì nay

đã trở về với hành trang là những tháng năm gắn bó với Trường Sa, với biển đảo Tổ

quốc. Bước đi trên con đường làng vẫn thơm mùi đất mẹ, nhà thơ chợt nhận ra một

điều: Trong suốt mười năm cầm súng xa nhà vào quân ngũ nay đã dần quên “tiếng

võng chao trưa nắng”, “ bèo nở động trăng khuya”…

Gửi lại cánh rừng ngổn ngang câu thơ lính

Làng quê ơi, hồn tôi lại trở về

Làm bạn với con bò ngu ngơ nhìn mây nước

Dầu dãi mái nhà, làng như mảnh đời quê

(Hồn quê)

Tuy nhiên yếu tố nội cảm ấy khi đứng trước những luận lý mang tính chất thời

đại thì vẫn luôn có sự lép vế, thể hiện một tinh thần chiến đấu, xả thân vì Tổ quốc.

Cái tôi chức năng ấy vẫn luôn mang tính chất định hướng cho cái tôi cảm xúc, bởi

vậy khi nhìn lại những tháng ngày đã qua, nhà thơ vẫn luôn khẳng định với lòng

mình và mọi người rằng ông là một người lính và chất lính ấy dù đi đến phương nào

cũng luôn sáng ngời, đúng như phẩm chất cao đẹp của những anh bộ đội.

Nếu anh lại trẻ trung mười tám tuổi

Và Tổ quốc lại một lần lên tiếng gọi anh đi

Anh lại bằng lòng vượt mọi hiểm nguy

Đuổi giặc trong cánh rừng giặc rải đầy thuốc độc

(Về làng)

Chia tay với những ngọn sóng bạc đầu nơi hải đảo xa xôi, chia tay những vần

thơ khoác áo lính, nhà thơ quay về với cuộc sống hàng ngày cùng những công việc,

những bộn bề lo toan. Cái tôi trong thơ Trần Đăng Khoa tại thời điểm này cũng có

sự chuyển biến, cũng vẫn là việc tiếp tục phát huy yếu tố luận lý và yếu tố nội cảm

nhưng được thể hiện trong những hoạt động, chuyển biến của cuộc sống đời



47



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

×