Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 110 trang )
đã thể hiện trực tiếp những cảm xúc của một cậu bé chưa đầy tám tuổi với lời thơ
mộc mạc và hồn nhiên: Con bướm vàng - Con bướm vàng - Bay nhẹ nhàng - Trên
bờ cỏ - Em thích quá - Liền đuổi theo - Con bướm vàng - Nó bỏ cánh - Vút lên cao Em nhìn theo. Bài thơ có cách diễn đạt mang dáng dấp một khúc đồng dao, các câu
mở đầu và câu cuối cùng hiệp vần với nhau để có thể đọc liên tiếp, xoay tròn. Bài
thơ ra đời, gây nên sự ngạc nhiên cho người lớn và sự thích thú của những độc giả
nhỏ tuổi, mà trước hết chính là cô em gái trong nhà. Sau cái ngưỡng đầu tiên còn
nhiều bỡ ngỡ ấy, cậu bé đã từng bước bước vào thế giới thơ ca như bước vào những
câu chuyện cổ tích. Những nhân vật trong thơ Trần Đăng Khoa là những sự vật rất
gần gũi hàng ngày như cây cối, con vật, góc sân, những trò chơi của trẻ em nông
thôn…Thơ của cậu bé nhanh chóng được những người xung quanh biết đến và yêu
thích, tiếng đồn về một cậu bé thần đồng thơ ca ngày càng lan xa. Nhiều tờ báo
trung ương và địa phương đã đăng thơ Trần Đăng Khoa. Năm 1967, thơ Trần Đăng
Khoa lần đầu tiên xuất hiện trên báo Văn nghệ và báo Thiếu niên tiền phong nhân
dịp kỉ niệm sinh nhật Bác, đó là bài “Ảnh Bác”. Khi nói về thơ Trần Đăng Khoa, tác
giả Vân Thanh đã nhận xét: “Thơ Khoa chủ yếu là nói đến thơ của yêu thương, của
sự sống trẻ thơ, của sinh hoạt bình dị hàng ngày. Từ góc sân nhà, thơ Khoa thấm
nhuần dư vị quê hương đồng nội Việt Nam” [37, tr. 156] . Sau này, khi được hỏi về
thời gian đầu sáng tác nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thổ lộ: “Tôi đến với thơ hồn
nhiên như em bé đến với trò chơi vậy” [13, tr. 30]. Những suy nghĩ giản đơn, hồn
nhiên ấy đã thay đổi sau khi cậu bé gặp nhà thơ Xuân Diệu – Người sau này đã trở
thành một người thày rất gần gũi, thân thiết với nhà thơ thiếu nhi . Nhà thơ lớn của
nền thi ca Việt Nam hiện đại đã chỉ ra cho cậu bé thấy sự vất vả và tính nghiêm túc
trong công việc sáng tạo nghệ thuật, thơ ca không bao giờ là trò chơi cả. Những
điều này đã có tác động lớn đến nhân sinh quan của cậu bé thần đồng. Năm 1968,
tập thơ “Góc sân và khoảng trời” gồm 52 bài thơ của Trần Đăng Khoa đã được Ty
giáo dục Hải Hưng xuất bản. Cũng trong năm này, nhà xuất bản Kim Đồng đã in ấn
và phát hành tập “Từ góc sân nhà em” gồm 12 bài thơ. Tập thơ “Góc sân và khoảng
trời” của Trần Đăng Khoa sau này còn được tái bản nhiều lần. Các tờ báo trung
22
ương, địa phương, trong nước và nước ngoài đều đăng nhiều bài phóng sự và bút kí
về cậu bé thần đồng Trần Đăng Khoa. Thơ của cậu bé làng Điền Trì lần lượt được
dịch và đăng tải trên nhiều tờ báo ở các nước như Pháp, Cuba, Liên Xô, Hungari…
Năm 1970, khi đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, trong khoảng thời gian
yên bình ngắn ngủi đó, cậu học sinh lớp bốn Trần Đăng Khoa đã kịp quay về với
những câu chuyện cổ tích thần tiên. Không còn hình ảnh của những hố bom, những
ụ pháo trên đường làng nữa, cậu bé đã kể lại những câu chuyện thần tiên ấy bằng
một thể tài thơ lớn – Trường ca. Đây là một thể loại khó viết bởi trường ca đòi hỏi
người viết phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp kể chuyện, phương
pháp điển hình hóa trong loại hình tự sự với những đặc trưng của thơ ca. Để đạt
được điều đó bản thân người viết cần phải có sự tích lũy và vốn sống phong phú.
Vậy nhưng, với “lưng vốn” khiêm tốn của mình, Trần Đăng Khoa đã mạnh dạn
trình làng trường ca “Đi đánh thần Hạn”. Đây là bản trường ca hư cấu theo cốt
truyện “Cóc kiện trời” kết hợp với những yếu tố hiện đại về bút pháp nghệ thuật
của thể loại trường ca. Tác phẩm này dài gần 1000 câu được viết theo thể tự do với
những hình ảnh phóng khoáng miêu tả cảnh đoàn người đói khát bước lên lưng cua
thần, bay lên trời để đánh nhau với thần Hạn. Tất nhiên nếu so sánh “Đi đánh thần
Hạn” của Trần Đăng Khoa với những tác giả cùng thời thì tác phẩm này có vị trí
khá khiêm tốn. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng, ở lứa tuổi thiếu nhi mà đã
dám thử sức với một thể loại khó như thế này thì đây đã được xem như một bước
tiến thành công trên con đường thể hiện cái tôi cá nhân của Trần Đăng Khoa. Sự
hứng thú với trường ca không dừng lại ở tác phẩm đó, song song với việc sáng tác
thơ, cậu bé vẫn chưa từ bỏ ý định tiếp tục gắn bó với thể loại đầy thách thức này.
Trong thời gian không quân Mỹ quay lại ném bom miền Bắc, làng quê yên tĩnh của
Trần Đăng Khoa cũng không thoát khỏi những trận oanh tạc của máy bay B52, cậu
bé lại miệt mài với với ý tưởng mới, và trường ca “Trừng phạt” ra đời. Không nằm
ngoài những hiện thực đang được chứng kiến từng ngày, “Trừng phạt” được xuất
hiện trên trang giấy bằng những cảm nhận của một cậu bé nông thôn về sự độc ác
của kẻ thù, những vết thương và sự mất mát trong chiến tranh cũng như thể hiện rõ
23
nét sự tàn phá của chiến tranh trên mảnh đất quê hương. Với những tác phẩm này,
những bước tiến của cậu bé thần đồng đã được ghi nhận bằng khả năng bao quát
rộng lớn cũng như khả năng miêu tả nội tâm nhân vật. Năm 1974, sự ra đời của
trường ca “Khúc hát người anh hùng” đã đánh dấu bước chuyển biến dài trên con
đường sáng tác của Trần Đăng Khoa. Khi bàn về tác phẩm này trên báo “Phụ nữ
Việt Nam” nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Thế là Khoa đã lớn thật
rồi! Mới ngày nào còn sửng sốt về tài thơ của em bé tám, chín tuổi. Bây giờ em đã
nói toàn chuyện người lớn, chuyện chính trị, chuyện thời đại, lại còn bàn luận triết lí
nữa” [30]. So với những tác phẩm dài hơi trước đây của mình, “Khúc hát người anh
hùng” của Trần Đăng Khoa có sự thay đổi rõ rệt về quy mô với việc sắp xếp các
tuyến nhân vật chính, phụ. Đề tài về người nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi không phải
là một đề tài mới, năm 1968 Trần Đăng Khoa đã viết bài “Em dâng cô một vòng
hoa” để tưởng nhớ tới người chiến sĩ cách mạng trung kiên này. Chặng đường bảy,
tám năm là khoảng thời gian tương đối dài để cậu bé có thể thấm thía sâu sắc hơn
cuộc đời chiến đấu oanh liệt của người nữ liệt sĩ. Điều khiến cho những độc giả khi
tiếp xúc với tác phẩm này ngạc nhiên ở chỗ, câu chuyện được cậu bé kể lại chân
thực, sống động và cụ thể đến mức người đọc có cảm giác như chính tác giả là
người đã được chứng kiến toàn bộ câu chuyện đó vậy. Nếu như “Đi đánh thần
Hạn” vẫn còn hơi hướng của một câu chuyện dân gian với không gian và thời gian
huyền thoại, thì với “Khúc hát người anh hùng” lại là một câu chuyện có thật, ở một
làng quê cụ thể với những nhân vật cụ thể. Năm khúc với gần 1300 câu thơ, trường
ca “Khúc hát người anh hùng” được viết xen kẽ giữa thể thơ tự do và thể lục bát
khá nhuần nhuyễn, thủ pháp đan cài này tạo cho tác phẩm có giọng điệu đa dạng
“bản thơ dài có chuyển điệu, có chỗ ngừng nghỉ, trợ sức cho người đọc được thoải
mái, hưng phấn theo dõi sự việc” [32]. Đây là một tác phẩm giàu trí tuệ với những
chiêm nghiệm, những triết lí gắn với những sự vật rất quen thuộc với cuộc sống của
người nông dân.
Mái gianh ơi hỡi mái gianh
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương
24
Có thể nói “Khúc hát người anh hùng” như một cây cầu nối tiếp giữa hai giai
đoạn sáng tác của nhà thơ, dần xa rời những vần thơ “trẻ con” và bắt đầu trên con
đường trở thành một nhà thơ “người lớn”, những vần thơ tự sự đã dần thay thế cho
những vần thơ xưng “em” mang đậm tính đồng dao của làng quê. Từ việc làm thơ
như một trò chơi, như một bản năng thì trong tác phẩm này Trần Đăng Khoa đã biết
cách tổ chức một tác phẩm lớn với những chương hồi quy mô. Điều đó thể hiện sự
phát triển vững chãi của tư duy thơ Trần Đăng Khoa, từ những bài thơ đơn lẻ nay đã
biết phát triển những câu thơ thành một hệ thống có quy mô lớn với những quy định
niêm luật tương đối chặt chẽ. “Khúc hát người anh hùng” – Tuy vẫn còn những hạn
chế khó tránh khỏi với một cây bút trẻ như Trần Đăng Khoa, nhưng cũng đã kịp để
lại dấu ấn không phai nhòa trong lòng người đọc về một bản trường ca độc đáo của
cậu bé làng Điền Trì trong bản hòa âm trường ca anh hùng rộng lớn đương thời.
“Thần đồng thi ca” có lẽ là những từ ngữ thích hợp nhất để nói về Trần Đăng
Khoa cùng những bài thơ làm từ góc sân ngày ấy. Thần đồng là vì mới tám tuổi, khi
mà chữ nghĩa chả có bao nhiêu, nhưng cậu bé đã làm thơ – rất nhiều thơ. Dù những
bài thơ đó với điểm xuất phát là trò chơi xếp chữ của một cậu bé nông thôn, nhưng
không ai có thể phủ nhận rằng chúng đều hay và rất lạ. Điều đầu tiên cuốn hút độc
giả đến với thơ Trần Đăng Khoa là vì cách xưng hô lạ lùng - “mày – tao” , mà “mày
– tao” không chỉ xuất hiện trong một lần mà còn được lặp lại nhiều lần trong các bài
khác nhau. “Mày – tao” trong thơ Khoa có đủ sự suồng sã của chốn thôn quê và
luôn ăm ắp đầy những cảm xúc hồn nhiên của trẻ thơ. Ngây thơ, hồn nhiên là một
bảo bối có sức mạnh nhiệm màu, bởi thế không có gì lạ khi đến với thơ Trần Đăng
Khoa là độc giả đến với một thế giới riêng kì diệu mà trong đó thế giới vật – người
vô cùng phong phú, đa dạng. Hồn nhiên là thế nhưng điều gây ấn tượng mạnh nhất
đối với người đọc khi đến với thế giới thơ Trần Đăng Khoa chính là sức tưởng
tượng, liên tưởng đạt đến trình độ siêu việt của nhà thơ thiếu nhi này. Tác giả Vũ
Nho trong cuốn “Trần Đăng Khoa thần đồng thơ ca” đã khẳng định đây chính là
yếu tố đặc sắc nhất để xếp thơ Trần Đăng Khoa vào loại thơ thần đồng. Ở mỗi bài
thơ, cậu bé đều có cách nhìn, cách cảm, cách nghe riêng, cùng trí tưởng tượng, liên
25
tưởng tràn ngập sắc màu dân gian. Tất cả đều được kết hợp hài hòa, được tỏa sáng
bởi một tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu. Tình cảm hồn nhiên, trong sáng ấy đã “tỏa
hương” trong từng câu chữ, bởi vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, cậu bé đã kịp tạo
dựng được vị trí của mình trên văn đàn nước nhà, một vị trí đặc biệt mà đến nay
chưa ai có được – Thần đồng thi ca Việt Nam. Đã có nhiều ý kiến khác nhau khi
đánh giá về thơ Trần Đăng Khoa trong giai đoạn này, nhưng tất cả đều thống nhất ở
một điểm: Giai đoạn mở đầu này có ý nghĩa rất lớn với đời thơ Trần Đăng Khoa.
Đây là giai đoạn thiên về năng khiếu bẩm sinh, là đỉnh cao rực rỡ nhất mà từ trước
đến nay chưa có một nhà thơ thiếu niên nào có được. Trần Đăng Khoa chính là một
hiện tượng độc đáo trên văn đàn Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến nay.
2.2. Thơ Trần Đăng Khoa ở tuổi trƣởng thành
Sau khi hoàn thành trường ca “Khúc hát người anh hùng”, Trần Đăng Khoa
không sáng tác trường ca nữa. Tốt nghiệp phổ thông trung học, nhà thơ không vào
đại học ngay mà xung phong đi bộ đội. Năm 1985, Trần Đăng Khoa đã ra mắt bạn
đọc tập thơ “Bên cửa sổ máy bay” với chân dung một nhà thơ Trần Đăng Khoa –
người lớn. Với tác phẩm này, Trần Đăng Khoa đã chính thức khép lại những vần
thơ của chú bé thần đồng ngày nào để trở thành một nhà thơ khoác áo lính với
những suy nghĩ sâu rộng hơn và nhiều sự trải nghiệm hơn. Trong tập thơ này Trần
Đăng Khoa đóng vai trò như một người lính tiên phong, đặt những viên gạch đầu
tiên cho việc phác họa chân dung những người lính hải quân trong thời bình – Một
đề tài mà mãi đến những năm 80 của thế kỷ XX người ta mới nói đến nhiều hơn và
kĩ hơn. Bản thân nhà thơ đã có những năm tháng sống gắn bó với đồng đội trên
quần đảo Trường Sa, viết về những người đồng đội cũng như nói lên những cảm
xúc, suy tư của bản thân, Trần Đăng Khoa một lần nữa đã thể hiện chân thực và sắc
nét một cái tôi cá nhân không thể nhầm lẫn
Lều bạt chung chiêng giữa nước, giữa trời
Đến một cái gai cũng không sống được
Sớm mở mắt nắng lùa ngun ngút
26
Đêm trong lều như trôi trong mây
(Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài)
Dưới đôi mắt nhạy cảm ấy, những đường nét tưởng như là gai góc, những màu
sắc tưởng như là khô khan, những chất liệu tưởng như là trần trụi, thô nhám của
Trường Sa, hết thảy đều biến thành thi liệu qua cảm quan nghệ thuật của Trần Đăng
Khoa. Trong thơ Trần Đăng Khoa, đá Trường Sa cũng có hồn như chiến sĩ Trường
Sa vậy: “Đá vững bền”, “đá tốt tươi”, “hòn đá ngàn năm trong nhịp đập tim
người”, “đảo đá cất thành lời”, “đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên”...Đá được diễn tả
theo lối nhân hoá đã trở thành hình ảnh biểu trưng cho sự sống Trường Sa kiên
cường, vững chãi. Hình ảnh những người lính Trường Sa “trọc đầu” vì cắt tóc ngắn
để tiết kiệm nước ngọt gội đầu đã tạo nên những câu thơ độc đáo
Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Ngòi bút của Trần Đăng Khoa, bằng một cách kín đáo đã đi vào chiều sâu tâm
trạng cũng như truyền đạt được những cung bậc tình cảm. Từ việc những người lính
trẻ ra đi từ đồng ruộng, nay tụ họp về đây trong tình đồng chí thiêng liêng. Những
buồn vui, nỗi nhớ cho đến cả những ước mơ bình dị nhất là được hát, được tắm
cũng được thể hiện dưới ngòi bút tinh tế của tác giả. Trong “Đợi mưa trên đảo Sinh
Tồn”, với cặp đôi “có” – “không”, “ước muốn” – “thực tế” đã miêu tả thật chân
thực tâm trạng “khát mưa” của người lính đảo… Nhà thơ viết nhiều về sóng gió
Trường Sa nhưng không làm con người chìm lấp giữa thiên nhiên. Trái lại, sóng gió
được dựng dậy làm nền để nhà thơ khắc hoạ chân dung lồng lộng, “ngang tàng như
gió biển” của chiến sĩ Trường Sa. Giai đoạn trước đây, khi viết về chú bộ đội, thơ
của Trần Đăng Khoa chỉ đơn giản một chiều, nhưng với sự trưởng thành về nhận
thức, những vần thơ sau này đã thể hiện sự trưởng thành, suy tư và chứa đựng nhiều
trăn trở hơn.
27
Điều dễ nhận thấy trong tập “Bên cửa sổ máy bay” của Trần Đăng Khoa là xu
hướng giảm yếu tố dân gian vốn là một điểm mạnh của nhà thơ. Có thể nói trong
tập thơ này, nét hồn nhiên, tươi mới, vui vẻ và lạc quan đã kém đi nhiều so với giai
đoạn thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa. Không gian làng quê vốn in đậm trong
những bài thơ ngày trước đến giờ tuy vẫn còn nhưng vẻ thơ mộng của nó dường
như chỉ còn lưu lại trong một trận mưa xuân
Mưa bay như khói qua chiều
Vòm cây nghe nhỏ giọt đều qua đêm
(Mưa xuân)
Yêu cầu về những tác phẩm thơ hiện đại nhưng vẫn không xa rời cội nguồn dân
tộc không chỉ là một thử thách to lớn đối với riêng Trần Đăng Khoa mà còn với tất
cả những người cầm bút. Trong tập thơ này, Trần Đăng Khoa đã khá đa dạng,
phong phú trong cách nhìn, cách nói, cách thể hiện trong từng thể loại thơ. Tuy vậy
thơ ông ít có sự hư cấu, tưởng tượng, liên tưởng mà thiên về tính triết lí và đề cao
yếu tố nội cảm. Nhà thơ ít nói về mình, hầu như cái “tôi” cá nhân đã hòa chung với
cái “ta” của đồng đội, dân tộc. Từ không gian làng quê, gia đình, thơ Trần Đăng
Khoa đã mở ra không gian rộng lớn bao la và đắm mình vào trong thế giới ấy. “Bên
cửa sổ máy bay” chưa hẳn là một tập thơ đặc sắc song khi tiếp nhận nó, người đọc
sẽ cảm nhận được tình cảm gắn bó sâu đậm, những suy nghĩ, những trăn trở của bản
thân tác giả trong nỗ lực tìm kiếm không ngừng để thể hiện cái tôi của mình. Việc
hướng lòng mình về quê hương yêu dấu, nơi có con sông Kinh Thày bồng bềnh
ráng tím, nơi có rặng tre xanh, cánh đồng làng, nơi có giậu cúc tần, chiều chiều “mẹ
đang đứng nhìn lên đây”…là một trong những nội dung chính của tập thơ “Bên cửa
sổ máy bay”.
Sau khi kết thúc chương trình học tập tại Trường viết văn Nguyễn Du, năm
1986 Trần Đăng Khoa sang Liên Xô tu nghiệp bảy năm tại Viện văn học thế giới
M.Gorki. Đến năm 1992, ông về nước và tham gia công tác tại tạp chí Văn nghệ
quân đội. Trong thời gian này, ngoài việc tiếp tục sáng tác thơ, ông còn viết văn,
viết báo, tham gia bình luận văn học. Những bài viết chân dung văn học và đối thoại
28
của ông được đăng trên các báo tạo nên những ấn tượng trong lòng độc giả về một
nhà thơ Trần Đăng Khoa hóm hỉnh, tinh quái và rất sâu sắc. Năm 1998, tập khảo
luận „Chân dung và đối thoại” của ông ra đời, đã gây một tiếng vang lớn trên văn
đàn nước nhà. Những cuộc tranh luận trên văn đàn chủ yếu xoay quanh việc xem
xét và đánh giá những bài viết của ông từ mọi góc độ, mọi khía cạnh đã tạo nên cơn
sốt cho bất kì ai quan tâm đến tác phẩm này. Chỉ trong một thời gian ngắn “Chân
dung và đối thoại” đã được tái bản đến 9 lần – Một kết luận cho việc công chúng
quan tâm đến đời sống văn học nghệ thuật nói chung và bản thân tác giả nói riêng.
Nói đến “Chân dung và đối thoại” nhà phê bình Trần Đình Khôi cho rằng “Chân
dung và đối thoại làm cho phê bình, bình luận gần gũi với đời sống văn học, với
nhà văn và sự cảm nhận văn chương cuả người đọc, giúp công chúng tiếp cận văn
học, trở lại với văn hóa đọc mà gần đây bị văn hóa nghe nhìn lấn át” [18]. Cuốn
sách không chỉ đề cập tới các tác giả mà còn đặt ra những vấn đề của đời sống văn
học đương đại: thẩm định lại các giá trị văn chương, phát hiện những điều mới mẻ,
thậm chí những điều khó nói và dễ đụng chạm. Bản thân tác giả trong một bài phát
biểu đã thẳng thắn nhận định: “Đây chỉ là những cảm nhận của riêng tôi trước
những giá trị văn chương, bởi thế sự chủ quan, phiến diện cực đoan vốn là dấu ấn
của tư duy cá nhân thực khó mà tránh khỏi” [3]. Mặc dù còn tồn tại những hạn chế
do thiên kiến chủ quan, song không thể phủ nhận rằng “Chân dung và đối thoại” đã
góp thêm một tiếng nói thẳng thắn, dân chủ trong phê bình. Đối với tác giả, có lẽ
sau “Góc sân và khoảng trời” qua 30 năm cầm bút làm thơ, đến nay ông đã khởi
động một hành trình kiếm tìm mới. Với sự chuyển hướng đầy khởi sắc của thần
đồng thơ ca năm nào, Trần Đăng Khoa đã tự khẳng định được vị trí của mình trên
văn đàn ở một địa hạt mới. “Chân dung và đối thoại” được xem là một cột mốc mới
trong hành trình sáng tác của Trần Đăng Khoa.
Từ tháng 6 năm 2004, khi đang mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân
Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Hiện
nay ông giữ chức Giám đốc của Hệ phát thanh có hình VOVTV của đài.
29
2.3. Quan niệm thơ qua “Chân dung và đối thoại”
Tập khảo luận “Chân dung và đối thoại” của Trần Đăng Khoa ra đời năm 1998
đã đánh dấu sự trở lại trên văn đàn của nhà thơ sau một thời gian dài im hơi lặng
tiếng. Thông qua việc khắc họa chân dung và đối thoại cùng các nhân vật của Trần
Đăng Khoa người đọc cũng đã phần nào hiểu được những quan niệm về thơ của
chính tác giả.
Mở đầu tác phẩm Trần Đăng Khoa đã trân trọng đặt vào đó chân dung nhà thơ
Tố Hữu, điều này xuất phát từ tình cảm kính trọng của tác giả với chính đối tượng
của mình. Vì vậy không có gì lạ khi từ nét vẽ đầu tiên cho đến khi đặt cây bút
xuống, Trần Đăng Khoa vẫn luôn khẳng định vai trò của Tố Hữu trong văn học Việt
Nam hiện đại, ông là “một nhà thơ lớn”, “một nhà thơ lãng mạn”, “một bút pháp
bậc thày”…Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã khẳng định: “ Tố Hữu chính là
người thư kí của cách mạng. Thơ ông là biên niên sử cách mạng Việt Nam” [13,
tr.10]. Bút pháp, tài nghệ bậc thày của Tố Hữu đã dựng lên hàng loạt những trang
sử thơ hào hùng của dân tộc, từ “Từ ấy”, “Việt Bắc”, qua “Gió lộng”, “Ra trận” rồi
đến “Máu và hoa”…Có thể nói, “viết về lịch sử thì không ai bằng được ông”. Đối
với đồng nghiệp, Tố Hữu là một nhà thơ của nhân dân, nhưng đối với riêng tác giả,
ông còn là một người thày đã giúp đỡ cậu bé Khoa từ những ngày đầu tiên chập
chững bước vào làng thơ. Người đọc chắc hẳn cũng không thể nào quên hình ảnh
Tố Hữu ngồi chép lại những câu thơ của mình từ trí nhớ của độc giả để tặng cho
báo Đại đoàn kết. Trần Đăng Khoa đã khẳng định: “Thật chẳng có gì sung sướng
hơn được nhân dân thuộc thơ mình. Đấy là tấm huân chương cao quí nhất mà nhân
dân đã trao tặng thi sĩ. Hạnh phúc lớn lao ấy, tạo hóa đâu có ban phát cho nhiều
người” [13, tr.25]. Tính sử thi là một chất liệu vô cùng quan trọng trong sự phát
triển của thơ ca cách mạng nước ta, qua việc khắc họa chân dung nhà thơ Tố Hữu,
chúng ta nhận thấy rằng Trần Đăng Khoa đánh giá rất cao thơ ca cách mạng cũng
như luôn đề cao chất sử thi trong thơ mà nhà thơ Tố Hữu là một tác giả tiêu biểu.
Trong tác phẩm này, Trần Đăng Khoa có ý kéo những “chân dung” ông khắc
họa lại gần hơn với công chúng, bởi vậy ông có dụng ý đưa đời sống lên trước tác
30
phẩm. Chân dung nhà thơ Xuân Diệu cũng được ông khắc họa theo cách này.
Người đọc không tiếp cận Xuân Diệu với những “Vội vàng”, “Giục giã”, “Đây mùa
thu tới”…mà được tiếp xúc với nhà thơ trong cuộc sống hàng ngày. Xuân Diệu là
người đa tài, vừa viết văn vừa làm thơ, lại vừa là một nhà phê bình sắc sảo “Phê
bình thơ khó khăn lắm…Thế nên mình cứ phải khó tính, cứ phải làm con gà mái
đứng gác cửa chuồng. Mặc dù là cái việc lườm nguýt bất lịch sự đó chẳng hay ho
gì” [13, tr.48]. Có thể nói, chính Trần Đăng Khoa đã đưa người đọc tới những vùng
xa khuất ẩn phía sau ánh hào quang lung linh của ngọn tháp thi ca Xuân Diệu để
hiểu hơn về cuộc đời một người nghệ sĩ. Đến với chân dung nhà thơ Xuân Diệu –
Người thày đã dìu dắt Trần Đăng Khoa trong những tháng ngày đầu tiên chập
chững bước vào làng thơ, ông đề cao quan điểm làm việc nghiêm túc và cẩn trọng
của thày mình. Đó là sự khẳng định nghề thơ là một công việc khó khăn, cao cả và
vinh quang. Nếu bản thân người nghệ sĩ không khắt khe với chính mình thì sẽ
không thể cho ra đời những tác phẩm có giá trị - Bài học này đã trở thành kim chỉ
nam định hướng cho suốt đời thơ Trần Đăng Khoa.
Quan điểm coi việc sáng tạo nghệ thuật là một hành trình khó khăn, gian khổ,
Trần Đăng Khoa còn khẳng định lại một lần nữa trong bức chân dung viết về nhà
văn Lê Lựu – Một trong những người bạn thân thiết của ông. Lê Lựu trong góc nhìn
của Trần Đăng Khoa luôn là “một tảng đá nguyên khối xù xì của thiên nhiên hoang
dã mà đời sống và văn minh thế giới không thể đẽo gọt được” [13, tr.77]. Tuy nhiên
khi bước vào địa hạt của văn chương thì chúng ta nhận ra chân dung một Lê Lựu
hoàn toàn khác, nhà văn này phải “lặn ngụp bì bõm, xẻ xắn từng khối chữ trên trang
giấy”. Bởi thế mới có một Lê Lựu “không chấp nhận sự nhạt nhẽo tầm
thường…Ngay cả khi tác phẩm hình thành rồi, có vấn đề, có cốt truyện, có nhân vật
hẳn hoi rồi, Lê Lựu vẫn viết một cách vất vả, chật vật” [13, tr.80]. Trần Đăng Khoa
vẽ chân dung người bạn thân thiết của mình với vẻ hài hước, dí dỏm và đề cao công
việc của bạn nhưng cũng đồng thời khẳng định lại với độc giả một lần nữa: Sáng tác
văn chương không phải một trò chơi, đó là một công việc nghiêm túc, vất vả nhưng
vô cùng vinh quang.
31
Trong những ngày tháng ấu thơ, Trần Đăng Khoa được mệnh danh là thần đồng
thơ ca. Với một tư duy trong sáng, hồn nhiên, Trần Đăng Khoa đã cho ra đời những
bài thơ sâu sắc và độc đáo mà trước hết là để dành cho chính mình, sau đó là dành
cho gia đình, cho những người bạn xung quanh. Khi đã trở thành một nhà thơ người
lớn, Trần Đăng Khoa càng ý thức được rằng chính tính chất trẻ thơ hồn nhiên, trong
sáng của những tháng ngày ngồi trên ghế nhà trường ấy đã tạo nên giá trị cho những
vần thơ của mình. Bởi vậy trong cuốn “Chân dung và đối thoại”, khi nhận xét về
thơ Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa đã đánh giá cao chất trẻ thơ trong những
tác phẩm của nhà thơ này. Dường như Hoàng Nhuận Cầm là một nhà thơ không có
tuổi, tuy là một nhà thơ khoác áo lính nhưng Hoàng Nhuận Cầm luôn “mang chất
trẻ thơ ra mặt trận” [13, tr.171]. Hình ảnh người lính trong thơ ông khác với thơ
Trần Đăng Khoa. Còn nhớ những vần thơ viết về người lính của Trần Đăng Khoa là
những con người ngạo nghễ trước sóng gió Trường Sa, thì trong thơ Hoàng Nhuận
Cầm người lính lại là những người học trò cầm súng ra trận, bởi vậy những người
lính này “in đậm tính nết trẻ con” [13, tr.172]. Thơ trong kháng chiến là thế, thơ
Hoàng Nhuận Cầm viết trong thời hậu chiến cũng không thay đổi, yếu tố trẻ thơ vẫn
được nhà thơ này duy trì với những âm thanh trong trẻo, hồn nhiên của trẻ thơ. Việc
khẳng định một trong những yếu tố tạo nên “thương hiệu” cho thơ Hoàng Nhuận
Cầm là chất trẻ thơ trong từng tác phẩm, bản thân tác giả Trần Đăng Khoa cũng một
lần nữa đề cao tính chất này trong việc sáng tác thơ. Bởi lẽ chất trẻ thơ trong sáng
cũng chính là một trong những nguyên liệu quan trọng tạo nên phong cách thần
đồng trong thơ Trần Đăng Khoa.
Thơ hay không chỉ căn cứ vào các biện pháp tu từ hay việc sử dụng ngôn từ đẹp,
hình ảnh đẹp…mà còn dựa trên cái hồn của người nghệ sĩ được thể hiện trong thơ.
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ như vậy. Nói đến tác giả này là chúng ta đang đề
cập đến một người nghệ sĩ tài hoa bậc nhất của văn học nghệ thuật Việt Nam.
Nguyễn Đình Thi không chỉ được biết đến với tư cách là một nhà thơ mà còn với
nhiều tư cách khác nhau như là một nhà biên kịch, một kiến trúc sư…Trong phạm
vi “Chân dung và đối thoại” Trần Đăng Khoa chỉ bàn luận đến tác giả này với tư
32