1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Báo chí >

3 Các giai đoạn phát triển của truyền hình thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 156 trang )


 1890-1895: Edouart Branly (người Pháp), Oliver Lodge (người

Anh) và Alexandre Popov (người Nga) hoàn chỉnh điện báo vô

tuyến.

 1895: Guglielmo Marconi (người Ý) ứng dụng những công trình

nghiên cứu về vô tuyến điện.

 Tháng 3/1899: Liên lạc vô tuyến quốc tế đầu tiên ra đời ở Anh và

Pháp, dài 46 Km

 1923: Vladimir Zworykin (người Nga) phát minh ra ống

iconoscop, cho phép biến năng lượng ánh sáng thành năng lượng

điện.

 1929: Chương trình phát hình đâu tiên của BBC được thực hiện

từ kết quả nghiên cứu của John Baird về quét cơ học.

 Tháng 4/1931: Chương trình phát hình đầu tiên được thực hiện ở

Pháp dựa trên những nghiên cứu của René Barthélemy.

 1934: Vladimir Zworykin hoàn chỉnh nghiên cứu về iconoscop

và bắt đầu ứng dụng vào việc xây dựng và phát sóng truyền hình.

 1935: Pháp đặt máy phát trên tháp Eiffel

 1936: Thế vận hội Berlin được truyền hình tại một số thành phố

lớn.

 1939: Truyền hình Liên Xô phát đều đặn hàng ngày

 1941: Mỹ chấp nhận 525 dòng quét với bộ phân giải của mình

Trong và sau chiến tranh thế giới thứ II: Các cường quốc chạy đua gay

gắt để phát các chương trình truyền hình nhằm vận động nhân dân ủng hộ

các chiến lược quân sự và kinh tế của mình.



15



 1948: Pháp chấp nhận chuẩn 819 dòng quét, kết quả nghiên cứu

của Henri de France.

 1954: Đài RTF phát những buổi tryền hình đầu tiên bằng điều

biến tần số.

 1956: Hãng Ampex giới thiệu máy ghi hình từ (thu hình ảnh trên

băng từ)

 Tháng 10/1960 truyền hình trực tiếp cuộc tranh luận trên kênh

truyền hình giữa 2 ứng cử viên tổng thống Mỹ: Richard Nixon và

John Kennedey

 1964: Vệ tinh đĩa tĩnh đầu tiên được phóng lên quỹ đạo mang tên

Early Bird.

 1965: Diễn ra cuộc chiến về các chuẩn truyền hình màu SECAM

(Pháp) và PAL (Đức) tại Châu Âu

 Tháng 10/1967: Khánh thành truyền hình màu ở Pháp và Liên



 1969: Cuộc đổ bộ lên bề mặt trăng của tàu Apollo 11 được

chuyền hình trực tiếp qua Mondovision.

 1970: Hiệp hội viễn thông quốc tế phân chia các sóng truyền

hình centimet cho các nước và giới thiệu loại băng hình video

dùng cho công chúng.

 1992: Truyền hình kỹ thuật số trở thành hiện thực

Hiện nay trên thế giới có các loại truyền hình sau:

 Truyền hình quảng bá: được phát sóng lên không trung chỉ cần

có máy thu hình (tivi) và ăng ten là xem được. ở Việt Nam,

truyền hình quảng bá đồng nghĩa với truyền hình annalog.

16



 Truyền hình kỹ thuật số: ứng dụng kỹ thuật số vào việc thu, phát

truyền hình.

 Truyền hình trực tuyến: truyền hình thu và phát trực tiếp thông

qua mạng truyền internet và được xem qua các trang web có liên

kết với kênh truyền hình.

 Truyền hình công nghệ độ phân giải cao: là dịch vụ truyền hình

có độ phân giải cao (High Definition TV –full HD ) với độ phân

giải cao nhất tính đến thời điểm năm 2008 là 1.920 × 1.080 pixel

đã được một số kênh truyền hình trên thế giới phát song song.

Như vậy, có thể thấy, lịch sử phát triển của truyền hình luôn nằm trong

và cùng song hành với lịch sử tiến bộ nhân loại. Truyền hình ngày một lớn

mạnh lớn là do nhu cầu thông tin của công chúng ngày càng cao, khoa học

kỹ thuật phát triển và xuất hiện nhu cầu được giao lưu quốc tế.

Chính bản thân các vấn đề sự kiện chính trị, xã hội cũng góp phần thúc

đẩy truyền hình phải tự phát triển và phát huy hơn nữa những ưu thế của

mình, từ đó dần tạo nên những đặc trưng riêng biệt mang tính loại hình trong

hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay. Được thiết kế với

những màn ảnh rộng áp dụng kỹ thuật hình ảnh 1125 dòng quét ngang thay

cho máy thu hình truyền thống chỉ 525 hoặc 625 dòng quét.



1.4 Quá trình hình thành truyền hình ở Việt Nam

Sự hình thành của truyền hình Việt Nam được đánh dấu mốc quan

trọng với sự kiện ngày 7/9/1970, chương trình truyền hình thử nghiệm đầu

tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được phát sóng. Chương trình

này do Đài tiếng nói Việt Nam thực hiện.



17



Trước đó, ngày 4/1/1968, phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đã ký quyết

định số 01/TTG-VP cho phép tổng cục thông tin (trực thuộc Chính Phủ)

thành lập “Xưởng phim vô tuyến truyền hình Việt Nam”. Đây là một xưởng

phim nhựa 16 ly, có nhiệm vụ làm phim thời sự tài liệu truyền hình gửi ra

nước ngoài nhờ đài truyền hình các nước xã hội chủ nghĩa phát trên sóng của

họ để tuyên truyền đối ngoại, đồng thời hướng dẫn và hợp tác với các đoàn

làm phim vô tuyến truyền hình nước ngoài đến quay phim ở Việt Nam.

Năm 1971, Chính Phủ đã quyết định chuyển xưởng phim vô tuyến

truyền hình tử tổng cục thông tin sang Đài tiếng nói Việt Nam, tăng cường

cho truyền hình một đội ngũ làm phim thời sự tài liệu có kinh nghiệm thực

tế và có một số vốn tư liệu quý.

Giữa năm 1966, Mỹ đưa truyền hình vào miền Nam. Khi nhận được

thông tin này, bộ biên tập và đội ngũ cán bộ kỹ thuật Đài tiếng nói Việt Nam

quyết tâm lao vào cuộc đua chuẩn bị cho được truyền hình để có thể tiếp

quản và điều hành các Đài truyền hình miền Nam ngay sau khi giải phóng.

Nhiều đoàn cán bộ, kỹ thuật viên được gửi ra nước ngoài học truyền hình.

Sau một thời gian dài nỗ lực của cả một đội ngũ đông đảo cán bộ, kỹ thuật

viên, ngày 7/9/1970 chương trình truyền hình đầu tiên được tổ chức trong

phòng thu nhạc lớn, thường gọi là Studio M, của Đài tiếng nói Việt Nam tại

trụ sở 58 Quán Sứ. Chương trình gồm 15 phút tin tức do phát thanh viên trực

tiếp đọc trên micro và 45 phút ca nhạc.

Sau một thời gian làm thử, tối 30 tết Tân Hợi (27/1/1971), nhân dân

Thủ đô Hà Nội được xem chương trình truyền hình đầu tiên. Chương trình ra

mắt khán giả Thủ đô lần đầu tiên, lại là đêm 30 tết nên khá phong phú: 30

phút thời sự trong nước và quốc tế do các phát thanh viên nam nữ thay nhau

đọc trước micro, thu vào camera điện tử chuyển thẳng lên sóng, chương

trình ca nhạc 30 phút dùng phương pháp playback; chương trình phim

18



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

×