Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 117 trang )
trình nghiên cứu mới của chính các thày cô, các sản phẩm nghiên cứu khoa học,
các tài liệu phục vụ cho giảng dạy…từ đó đề xuất lãnh đạo bổ sung.
- Nắm danh sách các giảng viên cơ hữu theo các môn học chung và
chuyên ngành của các khoa, bộ môn; trình độ, học vị, học hàm, chức danh của
họ để khi cần thiết có thể quan hệ trực tiếp với giảng viên, đề nghị họ cung cấp
các tài liệu bắt buộc và tài liệu tham khảo mà thư viện không thể bổ sung được.
Việc thiết lập mối quan hệ tốt với các giảng viên để nắm vững và cập nhật danh
mục tài liệu tham khảo của các môn học là hết sức cần thiết, đặc biệt là để bổ
sung cho thư viện những tài liệu ít gặp trên thị trường xuất bản và tài liệu mà
giảng viên có được do các chuyến đi công tác, học tập ở nước ngoài, dự các hội
nghị, hội thảo khoa học. Phải thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các giảng viên,
những người thường xuyên thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
ngành, đề tài nhánh cấp nhà nước, cấp trường, các giảng viên viết giáo trình,
sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo, bài báo khoa học để họ tư vấn về nguồn tài
liệu chính thống và nguồn tài liệu xám cần bổ sung.
- Điều chỉnh kịp thời chính sách bổ sung trên cơ sở quan hệ chặt chẽ với
phòng đào tạo và phòng sau đại học để nắm vững sự biến động hàng năm về số
lượng chuyên ngành đào tạo các bậc tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng, các loại
hình đào tạo chính quy, không chính quy, từ xa, liên kết đào tạo trong nước và
nước ngoài; số lượng sinh viên hệ chính quy, tại chức, học viên cao học, nghiên
cứu sinh, số lượng sinh viên quốc tế đang học tập tại trường; Nắm bắt kịp thời
chương trình đào tạo của hệ chính quy, hệ vừa học vừa làm, kế hoạch giảng dạy
và học tập cho các ngành/chuyên ngành đào tạo của trường trên cơ sở chương
trình khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, kể cả các chương trình đặc
biệt đối với những sinh viên xuất sắc, các chương trình bồi dưỡng, nâng cao
trình độ khoa học-công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ và các chương trình nâng
cao kiến thức khác, các chương trình chuyển đổi và liên thông giữa các trình độ
do trường thực hiện, các chương trình hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ, chương trình liên kết đào tạo với các tổ chức nghiên cứu, cơ sở đào tạo
trong nước và quốc tế,....
- Tổ chức và quản lý nguồn tin nội sinh: Nguồn tin nội sinh hay tài liệu
xám là “các công trình nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn, sách giáo trình,
82
sách tham khảo, tài liệu hội nghị, hội thảo... Đây là nguồn thông tin rất có giá trị,
phục vụ đắc lực cho học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng
viên, sinh viên các trường”. Trung tâm cần đẩy mạnh việc tổ chức và phát triển
nguồn tin nội sinh thông qua việc củng cố, tăng cường công tác thu thập, lưu giữ,
xử lý và phổ biến thông tin; hoàn thiện lại các quy định pháp lý về giao nộp luận
án, luận văn của cán bộ, sinh viên. Ngoài ra, còn một nguồn tài liệu quý giá khác
đó chính là các tài liệu hội nghị, hội thảo.
3.1.2 Phát triển nguồn thông tin số
Việc phát triển nguồn học liệu tại trường ĐH phụ thuộc trực tiếp vào
quan điểm của người quản lý, vào ý thức và sự tham gia của người dùng tin, vào
chiến lược phát triển hoạt động TT-TV. Nguồn học liệu điện tử trong trường đại
học đã và sẽ đóng vai trò quan trọng. Đây là nguồn tin được tạo lập và phát triển
chủ yếu thông qua một hệ thống chính sách đồng bộ và các giải pháp vê công
nghệ. Với mục tiêu trở thành nhà cung cấp TT trên mạng để phục vụ trực tiếp
các họat động nghiên cứu và đào tạo, TT TT-TV phải quan tâm đến việc phát
triển nguồn học liệu dưới dạng có thể khai thác trực tuyến. Đó là xu thế phát
triển nguồn học liệu tại các trường đại học trong tương lai gần.
Nguồn tài liệu điện tử bao gồm:
+ Sách tham khảo điện tử, tài liệu tra cứu điện tử.
+ Giáo trình điện tử, bài giảng điện tử.
+ Báo, tạp chí điện tử.
+ Các CSDL dữ kiện, thư mục điện tử.
+ Các bộ sưu tập số về Luận văn- luận án, Báo cáo khoa học, kỷ yếu hội
nghị, hội thảo…
+ CD-ROM, tài liệu đa phương tiện khác.
Kho tài liệu điện tử gồm những định dạng sau: dạng văn bản: html, pdf,
word, powerpoint…, dạng âm thanh, phim; mp3, avi, mpef….dạng ảnh: gif,
jpeg… được tổ chức thành bộ sưu tập theo từng chủ đề được lưu trữ trên các vật
mang tin: CD-ROM, DVD hay server.. phục vụ thông qua phần mềm quản lý thư
viện điện tử tối ưu và các công cụ công nghệ thông tin và truyền thông khác.
Trung tâm cần tập trung xây dựng hoàn chỉnh các loại CSDL toàn văn đặc
biệt quan trọng đối với học chế tín chỉ như CSDL toàn văn giáo trình, bài giảng,
83
CSDL đề cương chi tiết các môn học gồm những thông tin thư mục về tài liệu có
trong thư viện; CSDL toàn văn đề tài nghiên cứu khoa học; CSDL toàn văn luận
văn, luận án; CSDL toàn văn tài liệu tham khảo theo môn học. Xây dựng kho dữ
liệu dạng video clip: tham gia thu băng, quay video toàn cảnh các hội thảo khoa
học, các đề tài nghiên cứu khoa học…nhằm tạo lập kho tài liệu đa phương tiện.
Tăng cường bổ sung nguồn thông tin điện tử thông qua việc sưu tầm trên
mạng trao đổi, mua tài liệu giữa các thư viện, trung tâm thông tin, doanh nghiệp
hay các nhà xuất bản. Tạo lập liên kết đến các nguồn tài liệu điện tử thích hợp
trên internet.
Trung tâm cũng cần tham khảo và vận dụng kinh nghiệm của các thư viện
đại học nước ngoài về thiết kế các trang web tìm kiếm và chia sẻ thông tin về các
hệ thống quản lý giáo trình và các sản phẩm thông tin trong môi trường internet
biến động với nhịp độ nhanh.
3.1.3 Nâng cao khả năng chia sẻ nguồn thông tin
Những lợi ích của việc hợp tác liên thông, chia sẻ nguồn lực thông tin giữa
các cơ quan TT-TV ĐH:
- Đối với mỗi cơ quan TT-TV thành viên sẽ được giảm chi phí bổ sung và
xử lý tài liệu, tăng cường khả năng cung cấp thông tin, hoàn thiện nhiệm vụ và
cơ cấu tổ chức hoạt động.
- Đối với NDT sẽ được nâng cao hiệu quả của kết quả tra cứu, tìm kiếm
thông tin/ tài liệu
- Hợp tác, liên thông giữa các cơ quan TT-TV đại học là tiền đề quan trọng
để mở rộng mối giao lưu, hợp tác quốc tế.
- Sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông là điều kiện thuận lợi
cho việc liên thông chia sẻ nguồn lực thông tin.
- Nội dung của việc liên thông nhằm vào các vấn đề: Phối hợp bổ sung
nguồn lực TT, chia sẻ nguồn TT, phân công lao động trong xử lý TT, hỗ trợ
trang thiết bị và các giải pháp công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hội nhập, chia sẻ kinh nghiệm giữa các cán bộ TV, qui định quyền lợi và trách
nhiệm của mỗi TV thành viên trong các trường ĐH.
- Hoạt động liên thông được thực hiện qua các phương thức: Cho mượn
tài liệu liên thư viện, truy cập qua mục lục công cộng trực tuyến, nối mạng giữa
84
các Thư viện tổ chức các hội nghị, hội thảo để trao đổi kinh nghiệm hoạt động,
các tiêu chuẩn nghiệp vụ. thiết lập mục lục liên hợp với các biểu ghi thư mục có
đính kèm tên các thư viên có tài liệu đó, kết nối với dữ liệu cho mượn
(circulation data). Việc kết nối này cho phép người sử dụng có thể tra tìm tài
liệu, gửi yêu cầu về tài liệu trực tiếp đến thư viện thành viên của consortium và
tư liệu cần mượn sẽ được gửi tới người sử dụng thông qua thư viện cơ sở của họ.
- Điều kiện để đảm bảo cho sự liên thông: Đó là các chính sách, thủ tục
liên thông về pháp lý, đảm bảo các kiến trúc hạ tầng: tuân thủ tiêu chuẩn chung
về tổ chức tài nguyên TT, có phần mềm tích hợp các tiêu chuẩn chung và nguồn
tài nguyên TT chia sẻ được. Cụ thể:
Thứ nhất: Trung tâm cần chuẩn bị các điều kiện về cơ sở hạ tầng thông tin
và công nghệ thông tin, tuân thủ tiêu chuẩn chung về tổ chức tài nguyên TT, có
phần mềm tích hợp các tiêu chuẩn chung và nguồn tài nguyên TT chia sẻ được.
Các máy tính con được kết nối với nhau trên các mạng khác nhau: LAN, WAN,
INTERNET và vận hành trên đường băng truyền rộng để quản lý, trao đổi, khai
thác thông tin thông qua website chung cho toàn hệ thống.
Thứ hai: Chuẩn bị nguồn lực thông tin. Trung tâm TT-TV nói riêng và
các thư viện nói chung cần chuyển đổi từ TV truyền thống sang TV điện tử, xây
dựng một số CSDL dùng chung không chỉ cho các thư viện và trung tâm thông
tin mà có thể phối hợp với nhiều cơ quan tổ chức khác. Hoàn thiện các CSDL
dưới dạng biểu ghi thư mục, tiến hành số hóa từng phần hoặc toàn bộ các nguồn
tài liệu, ưu tiên các công trình nghiên cứu khoa học, các báo cáo khoa học, luận
án, luận văn và các tài liệu quý hiếm… Thư viện cần tăng cường bổ sung các
loại CSDL trực tuyến, sách điện tử, CD-ROM…
Thứ ba: Áp dụng các chuẩn nghiệp vụ trong xử lý thông tin. Trung tâm
TT-TV cần thực hiện các chuẩn nghiệp vụ để xử lý thông tin phục vụ cho việc
liên thông chia sẻ nguồn lực thuận lợi. Đó là:
- Chuẩn biên mục/quy tắc (ISBD, AACR2)
- Sử dụng khổ mẫu mô tả tài liệu/khổ mẫu biểu ghi (MARC21,
USMARC, MARC-XML, Dublin core..)
- Phân loại tài liệu theo khung phân loại DDC
- Chuẩn khuôn dạng trao đổi dữ liệu dưới dạng file điện tử (ISO 2709)
85
- Sử dụng bản đề mục chủ đề Thư viện quốc hội Mĩ và giao thức trao đổi
dữ liệu Z39.50
3.2 Phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin- thư viện phục vụ
chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ
3.2.1 Tạo lập các sản phẩm thông tin - thư viện bám sát chương trình học
tập theo học chế tín chỉ
Đào tạo theo tín chỉ là phương pháp mới ở Việt Nam, hiện nay mới được
áp dụng ở một số Trường đại học. ĐHQGHN đang trong giai đoạn chuyển đổi từ
đào tạo niên chế sang tín chỉ, do vậy có rất nhiều vấn đề phát sinh: từ phương
pháp giảng dạy đến vấn đề cung cấp học liệu phục vụ đào tạo. Một trong những
nhiệm vụ chính của Trung tâm TTTV là tạo lập được các sản phẩm phục vụ tốt
công tác đào tạo theo tín chỉ của nhà trường.
Xây dựng CSDL học liệu điện tử phục vụ E-learning
Hiện nay với sự phát triển của công nghệ viễn thông, nhiều hình thức đào
tạo mới xuất hiện. Các công nghệ mới đã cho phép xây dựng các lớp học ảo theo
phương thức E-Learning, người học có thể theo học ở bất kỳ nơi đâu, vào bất kỳ
thời gian nào.
E-learning chính là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công cụ
điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Internet, Intranet, băng video,
audio thông qua một máy tính hay TV. Người dạy và học có thể giao tiếp với
nhau qua mạng dưới hình thức như E-mail, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn
(forum), hội thảo video.
Trong những năm gần đây E-learning được xem như một phương thức
dạy học mới, bổ sung và hỗ trợ cho các phương thức đào tạo truyền thống. Để
phục vụ những lớp học này, thư viện phải xây dựng những CSDL số hoá, các
học liệu điện tử đa phương tiện.
Việc xây dựng học liệu điện tử phục vụ học tập (E-learning) tại thư viện
góp phần làm đa dạng hoá loại hình tài liệu, bổ sung nguồn cung cấp tài liệu mới
dưới hình thức các tư liệu trực tuyến đa phương tiện. Đây là tiền đề xây dựng mô
86
hình phục vụ bạn đọc mới - mô hình hệ thống thông tin-thư viện hiện đại, lưu trữ
và chia sẻ trực tuyến tài liệu, tri thức cho các đối tượng người dùng tin. Mô hình
này giúp cho giảng viên có điều kiện hơn trong quá trình cải tiến phương pháp
dạy đại học. Sinh viên có thể tự tìm tài liệu phục vụ cho việc học của mình,
trong khi giảng viên chủ yếu tập trung vào nêu vấn đề và trang bị phương pháp
nghiên cứu, học tập. Ngoài ra học liệu điện tử còn tạo cơ hội cho sinh viên trong
việc tiếp cận kiến thức, kích thích có thói quen làm việc với máy tính, đây chính
là một kỹ năng không thể thiếu đối với sinh viên hiện nay.
Để thực hiện xây dựng CSDL học liệu điện tử phục vụ học tập (Elearning), thư viện phải tiếp tục bổ sung thêm các phương tiện hiện đại trong
toàn trường và đường kết nối Internet tốc độ cao.
Tiếp tục xây dựng, hoàn chỉnh cơ sở dữ liệu giáo trình toàn văn. Đây là
nguồn thông tin tri thức lớn và luôn được cập nhật để có thể xây dựng được kho
giáo trình trực tuyến và học liệu điện tử lớn. Cần tiến hành số hoá các nội dung
tài liệu học tập, xây dựng chuyển đổi các giáo trình cốt lõi thành các học liệu
điện tử bài giảng trực tuyến. Thành lập các ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm và
thuật ngữ trực tuyến cho các bài giảng dạy này.
Xây dựng CSDL toàn văn
Xây dựng cơ sở dữ liệu toàn văn cần được tiến hành, bởi đây là một dạng
cơ sở dữ liệu chứa các thông tin cấp 1. Cơ sở dữ liệu này sẽ cải thiện đáng kể
việc cung cấp các nguồn tin, mở ra triển vọng mới trong hoạt động của các hệ
thống giao lưu thông tin.
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu toàn văn hiện nay đang được các chuyên gia
khuyến nghị theo hướng kết hợp giữa các tài liệu gốc với các biểu ghi thư mục
của các tài liệu đó. Mục đích đặt ra là tận dụng các cơ sở dữ liệu thư mục đã có,
đã được xây dựng. Người dùng tin vừa có thể tiến hành tra cứu tài liệu thông qua
các thông tin chỉ dẫn để lựa chọn những thông tin phù hợp, vừa có thể xem được
nội dung tài liệu gốc qua cơ sở dữ liệu toàn văn. Như vậy sẽ đem lại hiệu quả
cao cho người dùng tin khi tra tìm thông tin.
87
Tăng cường khả năng thích ứng của sản phẩm và dịch vụ thông tin-thư viện
trước yêu cầu ngày càng tăng của giảng viên và sinh viên khi đổi mới phương
pháp dạy và phương pháp học theo học chế tín chỉ. Hoàn thiện bộ máy tra cứu
tìm tin hiện đại, chỉ dẫn một cách rõ ràng quyền và mức được phép khai thác các
tài liệu, các nguồn tin. Chủ động cung cấp các điều kiện thuận lợi cho người sử
dụng khai thác, truy cập một cách hợp pháp qua cổng thông tin với giao diện trên
nền Web, với ngôn ngữ giao diện là tiếng Việt, tiếng Anh đến các CSDL, ngân
hàng dữ liệu, các nguồn tin theo yêu cầu của người dạy - người học. Cung cấp
các công cụ trao đổi thông tin giữa người dạy-người dạy, người dạy-người học,
người học-người học, tổ chức các diễn đàn, hội thảo, phòng thảo luận nhóm,....
Muốn vậy, cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Tạo cơ chế quản lý thích hợp từ chính sách, tổ chức, phân công, kế hoạch
cụ thể. Trước tiên người quản lý phải có trách nhiệm, quan điểm rõ ràng cũng
như chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người thực hiện thể
hiện trong các vấn đề:
+ Kinh phí: Tùy thuộc vào số lượng cũng như nhu cầu của bạn đọc mà tạo
lập sản phẩm phù hợp trên cơ sở xác định được nguồn kinh phí đầu tư là bao
nhiêu và nguồn kinh phí được lấy từ đâu.
+ Nhân lực: Tuỳ thuộc vào khối lượng công việc mà xác định nguồn nhân
lực là nhiều hay ít. Tuy nhiên, nhân lực phải thường xuyên được cập nhật và
phát triển hoàn thiện kiến thức.
+ Vật lực: Trước tiên phải xác định được nguồn tin thích hợp để thu thập
cũng như tạo lập sản phẩm. Mặt khác cơ sở vật chất của cơ quan cũng phải đáp
ứng được cho việc tạo lập sản phẩm.
+ Tài lực: Trình độ của cán bộ thông tin thư viện cũng như kỹ năng của
người quản lý để tạo ra những sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu
đào tạo theo tín chỉ.
Thực tiễn hiện nay vấn đề cung cấp sản phẩm thông tin phục vụ đào tạo tín
chỉ tại ĐHQG còn nhiều bất cập. Do vậy, tôi xin đưa ra một số giải pháp sau đây
88
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm thông tin thư viện đáp ứng nhu cầu của đào
tạo theo tín chỉ:
Thứ nhất: Cần nghiên cứu kỹ nội dung chương trình học theo tín chỉ trên cơ
sở đề cương môn học để tạo lập sản phẩm thông tin phù hợp.
Thứ hai: Cần phân công cán bộ phụ trách từng môn học để theo dõi nguồn
học liệu. Cán bộ thư viện cần giữ mối liên lạc thường xuyên với giảng viên.
Thứ ba: Cần có chiến lược phát triển các sản phẩm thông tin phù hợp trên
cơ sở kết hợp các yếu tố: tạo cơ chế hợp lý, kinh phí đầu tư, huy động nguồn
nhân lực, đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao trình độ của cán bộ,…
Trên cơ sở giải pháp đưa ra, các sản phẩm được tạo lập có thể đáp ứng nhu
cầu của đào tạo theo học chế tín chỉ bao gồm các sản phẩm sau:
- Hồ sơ học liệu của môn học nào sẽ bao gồm tất cả các vấn đề, trong đó hồ
sơ môn học được sắp xếp theo từng vấn đề, tập hợp tất cả các tài liệu có thể dưới
dạng tài liệu truyền thống hoặc điện tử.
- Tạo lập các sản phẩm là các cơ sở dữ liệu điện tử học liệu, cơ sở dữ liệu
toàn văn luận văn, luận án, cơ sở dữ liệu giáo trình điện tử, CSDL toàn văn giáo
trình, bài giảng, đề cương chi tiết các môn học; CSDL toàn văn đề tài nghiên cứu
khoa học; CSDL toàn văn luận văn, luận án; CSDL toàn văn tài liệu tham khảo
theo môn học.
3.2.2 Đa dạng hóa các dịch vụ thông tin phục vụ chương trình học chế
tín chỉ
Chuyển đổi phương pháp đào tạo đại học từ niên chế sang đào tạo theo tín
chỉ là một cuộc đổi mới toàn diện trong trường đại học. Các thư viện đại học
không thể đứng ngoài cuộc. Bám sát chương trình đào tạo, lịch trình dạy và học
của giảng viên và sinh viên, các thư viện đại học cần có những chiến lược phát
triển vốn tài liệu/học liệu sát hợp với ngành đào tạo và từng môn học; tổ chức và
phục vụ nguồn học liệu với công nghệ hiện đại và phương pháp phục vụ tiện lợi
nhất, theo tinh thần đáp ứng yêu cầu thông tin của người dùng tin là giảng viên
và sinh viên ở “mọi lúc, mọi nơi”. Muốn phục vụ tốt người dùng tin, cần tổ chức
89
tốt các dịch vụ thông tin theo nhóm, phục vụ chương trình học chế tín chỉ theo
các hướng sau:
- Phát triển cung cấp các học liệu theo từng vấn đề của môn học dưới dạng
giấy hoặc toàn văn.
- Cung cấp các trang điện tử toàn văn có liên quan đến học liệu cho bạn đọc.
- Cung cấp dịch vụ in ấn, phôtô tự động: cài đặt tự động chế độ nạp lệ phí và
khi tiến hành in và photo thì máy sẽ tự trừ tiền trong tài khoản của người dùng tin.
Phát triển dịch vụ mượn liên thư viện
Mượn liên thư viện giúp người dùng tin khai thác thông tin đầy đủ, phù
hợp với nhu cầu tin của người dùng tin. Mượn liên thư viện là hình thức phục vụ
bạn đọc khi sử dụng nguồn lực thông tin của các thư viện, cơ quan thông tin
khác trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu đọc và thông tin của người dùng
thư viện mình. Một số cơ quan thông tin thư viện trong cùng một khu vực địa lý
hoặc cùng một nhóm có ngành liên quan liên kết với nhau, cho phép người dùng
tin của mỗi cơ quan thành viên thông qua dịch vụ tổ chức tại đơn vị mình sử
dụng chung nguồn tài liệu của tất cả các cơ quan này. Ngày nay dịch vụ mượn
liên thư viện được mở rộng không chỉ đối với các cơ quan có quan hệ với nhau,
mà một cơ quan thông tin thư viện có thể thực hiện dịch vụ này với bất kỳ cơ
quan khác khi người dùng tin có yêu cầu.
Như vậy, đây hình thức chia sẻ nguồn lực thông tin tích cực nhất giữa các
thư viện để phục vụ đối tượng người dùng tin đa dạng. Dịch vụ này có mục đích
tạo ra những điều kiện tốt nhất để thỏa mãn một cách toàn diện và kịp thời
những yêu cầu về tài liệu đồng thời phát huy với hiệu quả cao nhất vốn tài liệu,
thông tin của các thư viện, cơ quan thông tin trong cả nước, tiết kiệm được rất
nhiều kinh phí cho các thư viện.
Để có thể tổ chức mượn liên thư viện với hiệu quả cao, trước hết phải có
sự liên kết và cam kết (nghĩa vụ, trách nhiệm, chi phí,... ) giữa các thư viện tham
gia. Nói cách khác, phải có sự chia sẻ nguồn lực giữa các thư viện. Ở nước
ngoài, thường hình thành các liên hợp thư viện (consortium) để chia sẻ nguồn
90
lực, trong đó có mượn liên thư viện. Khi đó, vốn tài liệu của thư viện này cũng
được coi là vốn tài liệu của thư viện khác. Khái niệm vốn tài liệu từ đó cũng thay
đổi: Vốn tài liệu của thư viện là những gì thư viện có thể cung cấp tại chỗ hoặc
qua dịch vụ liên thư viện, thay vì chỉ là những gì thư viện có.
Điều kiện quan trọng để duy trì mượn liên thư viện là phải có mục lục liên
hợp giữa các thư viện tham gia. Chỉ như vậy thư viện mới biết bạn đọc có thể
mượn sách gì, ở thư viện nào, chi phí bao nhiêu. Về phía bạn đọc, họ không cần
biết cuốn sách nằm ở thư viện nào, mà chỉ cần biết họ có thể mượn qua thư viện
mà họ là bạn đọc và với chi phí bao nhiêu.
Một trong những điều kiện tiên quyết để chia sẻ nguồn lực là các hệ thống
phần mềm phải có khả năng chia sẻ dữ liệu dễ dàng. Các thư viện phải dùng
chung các chuẩn mô tả thư mục, xử lý tài liệu. Ở Việt Nam, các thư viện đang
được khuyến khích áp dụng DDC, AACR2 và MARC21. Nếu áp dụng những
chuẩn này, có thể tổ chức mượn liên thư viện không chỉ giữa các thư viện trong
nước với nhau mà còn với các thư viện ngoài nước mà còn với các thư viện
ngoài nước.
Để thực hiện được dịch vụ mượn liên thư viện phải thực sự hoà nhập vào
hệ thống thông tin thư viện Việt nam nói riêng và hệ thống thông tin thư viện
quốc tế nói chung.
Tổ chức dịch vụ cung cấp thông tin theo chuyên đề
Mục đích của dịch vụ này là giúp người dùng tin ( cá nhân hoặc tập thể)
nắm bắt được nhanh chóng, đầy đủ và toàn diện thông tin thư mục mới nhất hoặc
những thành tựu mới trong các lĩnh vực khoa học, rút ngắn thời gian tra tìm
thông tin để thực hiện mục đích nghiên cứu, giảng dạy và học tập của họ.
Đối tượng sử dụng dịch vụ này có thể là các nhà nghiên cứu, các giảng
viên, nghiên cứu sinh, sinh viên…
91
Cần tăng cường biên soạn thư mục chuyên đề có tóm tắt chú giải qua
ngôn ngữ gốc của tài liệu phục vụ chương trinhg học tập của các Khoa và bộ
môn trong trường.
Để có thể tiến hành dịch vụ này cần phải có đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp
vụ và có trình độ, hiểu biết sâu về các ngành khoa học, các lĩnh vực trong
trường, có khả năng đưa ra được các danh mục chuyên đề phù hợp với hướng
nghiên cứu của người dùng tin trong trường.
Phát triển dịch vụ dịch thuật tài liệu
Đa số cán bộ giảng dạy và nghiên cứu của nhà trường có thể sử dụng từ
một đến hai ngoại ngữ, tuy nhiên trình độ ngoại ngữ của sinh viên còn hạn chế.
Để có thể tận dụng được triệt để, tối đa loại tài liệu này Trung tâm phải phát
triển dịch vụ dịch thuật tài liệu, hạn chế những trở ngại gây nên bởi hàng rào
ngôn ngữ.
Cần phối hợp với các chuyên gia về các lĩnh vực khoa học trong trường để
tổ chức dịch thuật, đáp ứng nhu cầu người dùng tin. Đặc biệt quan tâm dịch thuật
tài liệu phản ánh những thông tin mới nhất, những thành tựu khoa học mới.
Để thực hiện có hiệu quả dịch vụ dịch tài liệu, cần có sự hợp tác tích cực
của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu sinh- đây là những người có trình độ học vấn
cao, có hiểu biết chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên ngành. Họ có thể chọn lọc
định hướng những tài liệu phù hợp cho sinh viên.
Dịch vụ này chủ yếu dựa vào lao động thủ công của con người. Do vậy
chi phí về thời gian và nhân lực cho dịch vụ này tương đối lớn. Cần có sự hợp
tác chặt chẽ của thư viện và các chuyên gia để cho việc thực hiện, khai thác, sử
dụng dịch vụ này trở nên có hiệu quả cao nhất.
3.3. Nâng cao năng lực của cán bộ thư viện
3.3.1 Nâng cao kỹ năng tổ chức và quản lý nguồn tin hiện đại
Có thể nói trình độ và năng lực của cán bộ thông tin- thư viện là những yếu
tố vô cùng quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các dịch vụ được
92