Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 117 trang )
- Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ tổ chức, xử lí,
cung cấp tin và tài liệu của đội ngũ cán bộ thông tin, tư liệu, thư viện. Trang bị
kiến thức về hình thức cấu trúc cung cấp tin, về phương pháp tra cứu, tìm kiếm
tin và sử dụng thư viện cho cán bộ và sinh viên ĐHQGHN.
- Phát triển quan hệ trao đổi, hợp tác trực tiếp với các trung tâm thông tin,
thư viện, các tổ chức khoa học, các trường đại học trong và ngoài nước.
- Tổ chức và quản lí đội ngũ cán bộ, kho tài liệu, cơ sở hạ tầng và các tài
sản khác của Trung tâm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao theo qui
định của ĐHQGHN.
1.2.1.2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Trung tâm TT-TV
Bộ máy tổ chức của Trung tâm bao gồm Ban Giám đốc, các phòng
chuyên môn, chức năng, các phòng phục vụ bạn đọc.
- Ban giám đốc gồm có Giám đốc phụ trách chung và các Phó Giám đốc
phụ trách khối các phòng chức năng, khối chuyên môn nghiệp vụ và khối các
phòng phục vụ bạn đọc. Các chức danh này do Giám đốc ĐHQGHN bổ nhiệm
và miễn nhiệm.
*Khối các phòng chức năng gồm có:
- Phòng Hành chính- Tổng hợp- Tổ chức- Đối ngoại.
- Phòng Tài vụ
- Phòng Thanh tra
*Khối các phòng chuyên môn nghiệp vụ gồm có:
- Phòng Bổ sung- Trao đổi
- Phòng Phân loại- Biên mục
- Phòng Thông tin- Thư mục- Nghiệp vụ
- Phòng Máy tính và mạng
- Phòng Phát triển tài nguyên số
* Khối các phòng phục vụ bạn đọc
- Phòng Phục vụ bạn đọc Chung
- Phòng Phục vụ bạn đọc Ngoại Ngữ
- Phòng Phục vụ bạn đọc Thượng Đình
- Phòng Phục vụ bạn đọc Mễ Trì.
16
Trung tâm TT-TV hoạt động theo phương thức tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, dưới sự quản lý trực tiếp của ĐHQGHN. Trung tâm có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản riêng và là đơn vị dự toán cấp III. Trung tâm có sự
phối hợp chặt chẽ với các trường, các khoa, các đơn vị... thuộc ĐHQGHN trong
việc bổ sung, cung cấp tài liệu, thông tin cho người dùng tin trong toàn
ĐHQGHN.
17
GIÁM ĐỐC
CHI BỘ
CÔNG ĐOÀN
CHI ĐOÀN
TN
PGĐ phụ trách CSVC
PGĐ phụ trách KT
PGĐ phụ trách CTBĐ
P. Bổ sung - Trao đổi
P. Hành chính
P. Phân loại – Biên mục
P. Tài vụ
P. Máy tính và mạng
P. Thanh tra
P. Thông tin – Nghiệp vụ
P. PTTN số hóa
P. PVBĐ Chung
P. PVBĐ Ngoại
ngữ
P. PVBĐ Thượng Đình
P. PVBĐ Mễ Trì
Đọc tổng hợp
Mượn tham khảo
Đọc báo, tạp chí
Mượn giáo trình
Đọc chuyên đề
Mutimedia
Tra cứu
CSDL hồi cố
Luận án, luận văn
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức của Trung tâm Thông tin- Thư viện:
18
Với chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức như trên, Trung tâm TT-TV,
ĐHQGHN là một mô hình mới trong thư viện các trường ĐH ở nước ta. Mô
hình mới này thể hiện một số điểm sau:
1. Nhiệm vụ của Trung tâm là đảm bảo công tác thông tin tư liệu, phục vụ
cho công tác đào tạo và NCKH chất lượng cao của ĐHQG đa ngành, đa lĩnh vực
với quy mô lớn, gồm nhiều nhiều trường, khoa, viện, trung tâm nằm trên các địa
bàn khác nhau. Từ nhiệm vụ này, Trung tâm xây dựng định hướng và chiến lược
phát triển trong tương lai.
2. Trung tâm có quy mô khá lớn với đầy đủ các phòng ban, chức năng và
chuyên môn, hoạt động như một Trung tâm độc lập, theo quy chế riêng do Giám
đốc ĐHQG ban hành.
3. Trung tâm hoạt động theo cơ chế tự chủ cao. Đây là một trong những
điêu kiện thuận lợi trong quá trình phát triển của Trung tâm. Tính tự chủ đồng
thời với việc tự chịu trách nhiệm trước Pháp luật và các quy định của ĐHQGHN
1.2.2. Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin
1.2.2.1. Đặc điểm người dùng tin
Đối tượng sử dụng thông tin của Trung tâm thông tin- thư viện ĐHQGHN
bao gồm các cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu viên, học viên cao
học, nghiên cứu sinh, sinh viên và học sinh. Họ cũng chính là những tác giả của
các nguồn thông tin mới về khoa học cho xã hội.
Số lượng người dùng tin của ĐHQGHN rất lớn và đa dạng vì đây là một
trong những trường đại học lớn, gồm nhiều trường đại học thành viên, các khoa,
các trung tâm trực thuộc. Hiện nay tổng số cán bộ, viên chức trong biên chế của
ĐHQGHN có 2.813 cán bộ công chức, viên chức; 1.439 cán bộ giảng dạy, 1777
cán bộ khoa học 4.831 học viên cao học, 18.000 sinh viên chính quy, 22.155
sinh viên không chính quy, 2.343 học sinh trung học phổ thông chuyên.
Trong thời gian qua, các đơn vị đã tích cực đào tạo, bồi dưỡng, thu hút các
nhà khoa học có học vị TS trở lên về công tác tại ĐHQGHN, cụ thể trong 3 năm
2006-2008: ĐHQGHN đã tuyển dụng và thu hút được 253 giảng viên về làm
việc (trong đó phần lớn có trình độ TS). Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương thu
hút và sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao, ĐHQGHN đã thu hút
khoảng 200 GS và 300 PGS của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo trong cả nước
19
và hàng trăm các nhà khoa học có uy tín của thế giới, trong đó có một số người
đạt giải Nobel và các giải thưởng lớn có uy tín khác cùng tham gia đào tạo,
NCKH. Hầu hết họ là những người chủ trì hoặc tham gia đề tài nghiên cứu khoa
học các cấp.
- Bên cạnh trình độ chuyên môn, người dùng tin còn có khả năng ngoại
ngữ. Trong xu thế hội nhập và phát triển ngày nay, người dùng tin thường xuyên
phải học tập để nâng cao trình độ ngoại ngữ của mình.
Qua phiếu thăm dò nhu cầu tin của người dùng tin trong ĐHQGHN cho
thấy ngoại ngữ được sử dụng nhiều nhất là Tiếng Anh (98.3%), tiếp theo là tiếng
Trung Quốc (41%, tiếng Pháp 22,77% và một số ít sử dụng các thứ tiếng
khác)….
Qua đó có thể thấy, khả năng sử dụng ngoại ngữ cùng với nhu cầu về tài
liệu tiếng nước ngoài của người dùng tin trong ĐHQGHN ngày càng cao, do đó
cần phải tăng cường các loại hình tài liệu nước ngoài.
Bảng 1.2: Ngoại ngữ chính người dùng tin sử dụng
STT Ngoại ngữ
Tổng số
SL
%
CB quản lí,
lãnh đạo
SL
%
CB nghiên
cứu, giáo viên
SL
%
NCS, CH,
sinh viên
SL
%
1
Anh
177
98,3
12
80
40
100
125
100
2
Nga
46
25,5
14
93,33
21
52,5
10
0,8
3
Trung
74
41
10
66,6
12
27,9
52
41,6
4
Pháp
41
22,77
6
40
15
30
20
16
5
Nhật Bản
14
0.77
0
0
2
0,5
12
0.96
6
Đức
4
0,22
0
0
2
0,5
2
0,46
7
Ngoại ngữ 22
12,2
3
20
7
17,5
12
0,96
khác
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học của
ĐHQGHN trong giai đoạn hiện nay có thể phân chia người dùng tin theo các
nhóm sau:
20
Nhóm 1: Cán bộ lãnh đạo, quản lý
Nhóm này bao gồm Ban Giám đốc ĐHQGHN, cán bộ lãnh đạo Đảng,
chính quyền, đoàn thể, Ban Giám hiệu các trường đại học thành viên, Giám đốc
Trung tâm, các trưởng phó khoa, bộ môn. Nhóm này tuy số lượng không nhiều
nhưng đặc biệt quan trọng, họ vừa là người dùng tin, vừa là chủ thể tạo ra thông
tin. Họ vừa thực hiện chức năng quản lý công tác giáo dục đào tạo, vừa là người
xây dựng các chiến lược phát triển của ĐHQGHN.
Thông tin đối với nhóm này chính là công cụ của quản lý vì quản lý là quá
trình biến đổi thông tin thành hành động. Thông tin càng đầy đủ quá trình quản
lý càng đạt kết quả cao. Bởi vậy yêu cầu thông tin của nhóm này là thông tin trên
diện rộng, mang tính chất tổng kết, dự báo, dự đoán về lĩnh vực khoa học cơ bản,
khoa học xã hội nhân văn, tài liệu chính trị kinh tế xã hội, các văn bản, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Nhóm dùng tin này còn cung cấp nguồn
thông tin có giá trị cao, do vậy cán bộ thông tin cần khai thác triệt để nguồn
thông tin này bằng cách trao đổi, xin ý kiến nhằm tăng cường nguồn thông tin
cho công tác thông tin- thư viện.
Hình thức phục vụ là các bản tin nhanh, các tin vắn, tóm tắt tổng quan,
tổng luận. Phương pháp phục vụ chủ yếu dành cho nhóm đối tượng này là phục
vụ từ xa, cung cấp theo những yêu cầu cụ thể.
Nhóm 2: Cán bộ nghiên cứu, giảng viên
Đây là nhóm dùng tin có hoạt động thông tin năng động, tích cực nhất. Họ
vừa là người dung tin, vừa là chủ thể của hoạt động thông tin, thường xuyên
cung cấp thông tin qua hệ thống bài giảng, các bài báo, tạp chí, các công trình
nghiên cứu khoa học được công bố, các dự án, đề tài khoa học…
Thông tin cho nhóm này có tích chất chuyên ngành, có tính chất lý luận
và thực tiễn. Các thông tin có tính thời sự liên quan đến các lĩnh vực khoa học tự
nhiên và xã hội, các thông tin mới về các thành tự khoa học kỹ thuật trong và
ngoài nước, kết quả các công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài đã và đang
được tiến hành, những nguồn thông tin khoa học có thể truy nhập được, các hoạt
động khoa học được triển khai. Hình thức phục vụ nhóm này là các thông tin
chuyên đề, thông tin chọn lọc, thông tin tài liệu mới.
Nhóm 3: Nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên
21
Đối với nghiên cứu sinh, học viên cao học: Đây là những người dùng tin
đã tốt nghiệp đại học, đã qua thực tiễn công tác tại các cơ quan ở khắp các tỉnh
trong cả nước. Nhu cầu thông tin của họ chủ yếu là thông tin có tính chất chuyên
ngành sâu, phù hợp với chương trình đào tạo, đề tài, đề án của họ.
Đối với người dùng tin là sinh viên: Đây là nhóm người dùng tin đông
đảo có có biến động nhiều nhất. Hiện nay do yêu cầu đổi mới phương thức đào
tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ. Nhóm người dùng tin này cũng có sự thay
đổi về nhu cầu thông tin phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu đáp ứng phương
thức , đào tạo mới. Trong số sinh viên của ĐHQGHN, ngoài sinh viên chính
quy, còn có hệ sinh viên vừa học vừa làm. Ngoài thông tin về những chuyên
ngành đang học, sinh viên cần cập nhật các thông tin khác về nhiều lĩnh vực kinh
tế xã hội để tăng khả năng hiểu biết và nâng cao trình độ. Do vậy nhóm dùng tin
này cần những thông tin cụ thể, chi tiết và đầy đủ. Tùy theo từng chuyên ngành
học mà những thông tin, tài liệu cần phải phù hợp và bám sát chương trình đào
tạo đó.
Hình thức phục vụ cho nhóm dùng tin này chủ yếu là thông tin phổ biến
về những tri thức cơ bản dưới dạng sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo
hoặc một số ít là bài viết trong tạp chí, những luận án, luận văn có tính chất cụ
thể trực tiếp phục vụ cho môn học và các ngành học đào tạo.
Ngoài những nhóm người dùng tin trên, Trường ĐHQGHN còn có một
khối lượng khá lớn học sinh trung học phổ thông chuyên. Đây là các khối
chuyên của Trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên và trường THPT chuyên
Ngoại ngữ, ĐHQGHN. Thông tin của nhóm này là các loại sách giáo khoa, sách
tham khảo cơ bản…
1.2.2.2. Đặc điểm nhu cầu tin
Nhu cầu tin là đòi hỏi khách quan về thông tin của con người nhằm đảm
bảo duy trì và thực hiện các hoạt động nhận thức thực tiễn xã hội. Do vậy nhu
cầu tin luôn gắn chặt với nhu cầu nhận thức của con người. Nhu cầu nhận thức
càng cao thì nhu cầu tin càng lớn.
Hiện nay, do việc chuyển đổi từ phương thức đào tạo niên chế sang đào
tạo theo học chế tín chỉ nên nhu cầu tin trong ĐHQGHN có nhiều biến đổi,
phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn.
22
Luận văn đã khảo sát 200 phiếu điều tra. Trong đó nhận được 15 phiếu
của nhóm NDT là lãnh đạo, cán bộ quản lí, 40 phiếu của nhóm NDT là cán bộ
nghiên cứu khoa học và giảng dạy, 125 phiếu của NDT là sinh viên, học viên.
Qua phân tích kết quả thu được từ phiếu điều tra, luận văn đã khái quát các đặc
điểm về nhu cầu tin của người dùng tin như sau:
*Về lĩnh vực chuyên môn
Đại học Quốc gia Hà Nội là trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực nên
hầu hết các lĩnh vực khoa học đều được các nhóm NDT quan tâm. Tuy nhiên
nhu cầu tin cao nhất về lĩnh vực khoa học xã hội (61,6%), khoa học tự nhiên
(54,4,%), tiếp theo là khoa học Mac-Lenin (50%) vì việc giảng dạy, nghiên cứu
và học tập lý luận Mac-lenin là không thể thiếu trong các nhà trường. Bên cạnh
đó, nhu cầu tin về các lĩnh vực công nghệ thông tin cũng khá cao (41,6%), các
ngành khoa học xã hội mới được đưa vào chương trình đào tạo và diện đề tài
nghiên cứu khoa học các cấp. Trong thời gian vừa qua, ĐHQG đang triển khai
Đề án xây dựng và phát triển 16 ngành và 26 chuyên ngành khoa học cơ bản,
công nghệ cao, kinh tế- xã hội mũi nhọn ở ĐHQGHN đạt trình độ quốc tế, gọi
tắt là nhiệm vụ chiến lược 16+23. Chính vì vậy mà Trung tâm đã và đang tăng
cường bổ sung các tài liệu phục vụ cho nhiệm vụ chiến lược của ĐHQGHN.
Lĩnh vực khoa học
Tổng số
SL
%
CB quản lí,
CB nghiên
lãnh đạo
cứu, giáo viên
SL
%
SL
%
NCS, CH,
sinh viên
SL
%
KHXH&NV
111 61,6
12
80
24
60
75
60
Khoa học tự nhiên
98
54,4
11
73,3
22
55
65
52
Khoa học ứng dụng
41
22,7
5
30
10
25
25
20
Công nghệ thông tin
75
41,6
10
66,6
15
37,5
50
40
Khoa học kinh tế
47
26,1
5
33,3
12
30
30
24
Khoa học giáo dục
63
35
7
46,6
8
20
48
38,4
Mac- 90
50
15
100
25
62,5
50
40
31
7
46,6
14
35
35
28
Khoa
học
Lenin
Các lĩnh vực khác
56
Bảng 1.3: Nhu cầu về lĩnh vực khoa học của người dùng tin
23
*Về loại hình tài liệu
Nhìn chung nhu cầu sử dụng tài liệu giáo trình và tài liệu tham khảo
chiếm ưu thế (100% và 78%) đối với nhóm NDT là sinh viên và học viên
Trong giai đoạn hiện nay, do phương thức đào tạo chuyển đổi từ niên chế
sang học chế tín chỉ, nhu cầu tin của người dùng trong ĐHQG ngày càng cao
hơn, phong phú và đa dạng hơn. Những thông tin được họ khai thác theo nhiều
phương thức và ở nhiều loại hình khác nhau. Mỗi nhóm người dùng tin ở
ĐHQGHN có mục đích và nhu cầu khác nhau nên đã ảnh hưởng đến việc lựa
chọn loại hình tài liệu phục vụ cho nhu cầu của họ cũng khác nhau.
Đối với nhóm cán bộ lãnh đạo quản lý, thông tin họ cần có tính tổng hợp,
khái quát tính thời sự và dự báo cao, ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định.
Chính vì vậy sự lựa chọn của họ là các tạp chí chuyên ngành (86,6%), báo cáo
khoa học (80%), tài liệu điện tử (80%) tài liệu tra cứu (60%), đề tài nghiên cứu
khoa học (53,3%)… và một số loại hình khác như sách tham khảo…
Đối với nhóm người dùng tin là cán bộ nghiên cứu và giảng viên, thông
tin học cần có tính lí luận và thực tiễn, thông tin cụ thể và chính xác. Vì vậy sự
lựa chọn của họ là báo cáo khoa học (87,5%), đề tài nghiên cứu khoa học (80%),
tạp chí chuyên ngành (70%), tài liệu tra cứu (75%), sách tham khảo (45%), nhu
cầu về luận văn - luận án, giáo trình ít được quan tâm và sử dụng.
Đối với người dùng tin là NCS, CH, sinh viên do mục đích của họ là sử
dụng thông tin phục vụ cho học tập và nghiên cứu nên tài liệu họ lựa chọn có
những thông tin trong tài liệu có tính chất cẩm nang giúp học viên, sinh viên
định hướng, lĩnh hội và tiếp nhận thông tin, kiến thức từ phía giảng viên như
giáo trình, sách tham khảo là những loại tài liệu được nhóm NDT này sử dụng
nhiều. Nhu cầu sử dụng nhiều nhất là giáo trình (100%), tiếp đến là tài liệu tham
khảo (78%), tài liệu tra cứu (60%) luận án, luận văn được sinh viên năm thứ ba,
thứ tư, học viên cao học và nghiên cứu sinh sử dụng nhiều (56%), tạp chí chuyên
ngành (36%), hiện nay do đặc thù của phương thức đào tạo theo tín chỉ, nhu cầu
thông tin dưới dạng điện tử được nhóm NDT này quan tâm nhiều (40%). Qua
bảng thống kê chúng cho thấy, tài liệu đa phương tiện được rất ít người sử dụng
5(0,27%) vì lí do hiện nay Internet trở thành công cụ tra cứu hữu hiệu và đã dần
thay thế các phương tiện nghe nhìn khác.
24
Bảng 1.4: Nhu cầu sử dụng tài liệu của người dùng tin
Tổng số
CB quản lí,
lãnh đạo
SL
SL
%
%
CB nghiên
cứu, giảng
viên
SL
%
NCS, CH,
sinh viên
SL
%
Giáo trình
134 74,4 0
0
9
22,5
125
100
Tài liệu tham khảo
121 67,2 5
30
18
45
98
78
Luận văn, luận án
75
0
5
12,5
70
56
Tài liệu tra cứu
106 58,8 9
60
22
55
75
60
T/chí chuyên ngành
86
47,7 13
86,6
28
70
45
36
Tài liệu điện tử
92
51.1 12
80
30
75
50
40
TL đa phương tiện 5
(băng đĩa)
Đề tài NCKH
72
0,27 0
0
0
0
5
12,5
40
53,3
32
80
32
25,6
Báo cáo khoa học
45,5 12
80
35
87,5
35
28
82
41,6 0
8
Tóm lại: Nhu cầu tin của NDT trong ĐHQGHN thể hiện rõ đặc thù của
một trường đại học đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Nhu cầu tin phong phú, đa
dạng nhưng có tính chất chuyên sâu. Những đổi mới trong phương thức đào tạo
từ niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ đã có tác động sâu sắc và rõ rệt đối
với nhu cầu tin của người dùng tin ở ĐHQGHN. Vì vậy Trung tâm TT-TV cần
nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững nhu cầu tin của từng nhóm người dùng tin,
trong từng giai đoạn cụ thể, từ đó có những định hướng, phương pháp xây dựng,
tổ chức các sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện phù hợp với nhu cầu tin của
NDT trong giai đoạn mới, phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu khoa học của
sinh viên, cán bộ, giảng viên của ĐHQGHN.
1.3 Vai trò và hoạt động thông tin thư viện đối với quá trình đào tạo
theo học chế tín chỉ
1.3.1. Vai trò của hoạt động thông tin thư viện đối với quá trình đào tạo
theo học chế tín chỉ
25
Theo Quy chế đào tạo theo phương thức tín chỉ của ĐHQGHN thì dạy học
theo phương thức đào tạo tín chỉ là dạy cho người học cách tìm kiếm, xử lí và tự
tích luỹ kiến thức dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của thầy tức là tăng cường tự
học, tự nghiên cứu; vì vậy, giờ tín chỉ được nhận diện thông qua thời gian lao
động/học tập của sinh viên và nó được thể hiện thông qua 3 hình thức dạy học
chủ yếu đó là giờ lên lớp lí thuyết; giờ lên lớp thảo luận, thực hành và giờ tự học
để người học tự học, tự nghiên cứu theo yêu cầu của học chế tín chỉ. Một giờ tín
chỉ tính bằng 3 giờ lao động của người học tự học, tự nghiên cứu kết hợp với các
hình thức học tập khác.Tất cả giờ lao động này đều phải được kiểm tra, đánh giá
để xác nhận thành quả học tập và đây là trách nhiệm của giảng viên khi dạy học
theo tín chỉ và người học được công khai kết quả đánh giá trong quá trình tích
lũy kiến thức, kỹ năng để được xác nhận mức độ hoàn thành yêu cầu của học chế
tín chỉ. Tất cả điều nêu trên được cụ thể hóa phương thức triển khai với các
nhiệm vụ được quy định cho sinh viên; chỉ rõ học liệu cần sử dụng; tiêu chuẩn
đánh giá... và văn bản đó được gọi là đề cương chi tiết học phần/môn học. Để
đảm bảo chất lượng đào tạo, để hình thức học tập này đạt kết quả tốt ngoài các
yếu tố cần xem xét như: đội ngũ giảng viên, nội dung chưong trình, cơ sở vật
chất, phương pháp giảng dạy, trang thiết bị học tập thì thư viện là yếu tố không
thể thiếu.
Thư viện, Trung tâm thông tin- thư viện, trung tâm học liệu (gọi tắt là thư
viện) của các trường Đại học, Học viện, trường Đại học, học viện, cao đẳng (gọi
chung là Đại học) là một bộ phận hợp thành trường Đại học, là nhân tố không
thể thiếu trong quá trình đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo của trường- nhất
là trong bối cảnh giáo dục Đại học đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ phương thức
từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ. Với việc chuyển đổi phương
thức đào tạo này, việc tự học, tự nghiên cứu của giảng viên và sinh viên giữ vai
trò hết sức quan trọng. Với tư cách là nơi cung cấp tài liệu đầy đủ nhất, chính
xác nhất, nhanh chóng nhất, kịp thời nhất, có thể đáp ứng và thỏa mãn mọi nhu
cầu của người sử dụng, thư viện của các trường đã trở thành “giảng đường thứ
26