1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Xã hội học >

3 Vai trò và hoạt động thông tin thư viện đối với quá trình đào tạo theo học chế tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 117 trang )


Theo Quy chế đào tạo theo phương thức tín chỉ của ĐHQGHN thì dạy học

theo phương thức đào tạo tín chỉ là dạy cho người học cách tìm kiếm, xử lí và tự

tích luỹ kiến thức dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của thầy tức là tăng cường tự

học, tự nghiên cứu; vì vậy, giờ tín chỉ được nhận diện thông qua thời gian lao

động/học tập của sinh viên và nó được thể hiện thông qua 3 hình thức dạy học

chủ yếu đó là giờ lên lớp lí thuyết; giờ lên lớp thảo luận, thực hành và giờ tự học

để người học tự học, tự nghiên cứu theo yêu cầu của học chế tín chỉ. Một giờ tín

chỉ tính bằng 3 giờ lao động của người học tự học, tự nghiên cứu kết hợp với các

hình thức học tập khác.Tất cả giờ lao động này đều phải được kiểm tra, đánh giá

để xác nhận thành quả học tập và đây là trách nhiệm của giảng viên khi dạy học

theo tín chỉ và người học được công khai kết quả đánh giá trong quá trình tích

lũy kiến thức, kỹ năng để được xác nhận mức độ hoàn thành yêu cầu của học chế

tín chỉ. Tất cả điều nêu trên được cụ thể hóa phương thức triển khai với các

nhiệm vụ được quy định cho sinh viên; chỉ rõ học liệu cần sử dụng; tiêu chuẩn

đánh giá... và văn bản đó được gọi là đề cương chi tiết học phần/môn học. Để

đảm bảo chất lượng đào tạo, để hình thức học tập này đạt kết quả tốt ngoài các

yếu tố cần xem xét như: đội ngũ giảng viên, nội dung chưong trình, cơ sở vật

chất, phương pháp giảng dạy, trang thiết bị học tập thì thư viện là yếu tố không

thể thiếu.

Thư viện, Trung tâm thông tin- thư viện, trung tâm học liệu (gọi tắt là thư

viện) của các trường Đại học, Học viện, trường Đại học, học viện, cao đẳng (gọi

chung là Đại học) là một bộ phận hợp thành trường Đại học, là nhân tố không

thể thiếu trong quá trình đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo của trường- nhất

là trong bối cảnh giáo dục Đại học đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ phương thức

từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ. Với việc chuyển đổi phương

thức đào tạo này, việc tự học, tự nghiên cứu của giảng viên và sinh viên giữ vai

trò hết sức quan trọng. Với tư cách là nơi cung cấp tài liệu đầy đủ nhất, chính

xác nhất, nhanh chóng nhất, kịp thời nhất, có thể đáp ứng và thỏa mãn mọi nhu

cầu của người sử dụng, thư viện của các trường đã trở thành “giảng đường thứ



26



hai” và là người thầy thứ hai của đông đảo sinh viên vì Thư viện là một trung

tâm thông tin tư liệu và là động lực đóng góp vào việc cải tiến giáo dục.

Thư viện đại học là điểm kết nối giữa nguồn thông tin của xã hội và nhu

cầu thông tin của sinh viên.

Thư viện là môi trường rèn luyện và phát huy năng lực độc lập trong việc

khám pháp và tư duy sáng tạo của sinh viên

Thư viện có thể góp phần cải tiến nội dung chương trình giảng dạy

Thư viện đóng vai trò là cầu nối giữa người dùng tin với các nguồn thông

tin, giữa những người dùng tin với nhau, đặc biệt là giữa người dạy và người

học…cũng như phương pháp giảng dạy kích thích tính tích cực và chủ động của

ngưoiừ học đã đòi hỏi và nâng cao vai trò và vị thế của Trung tâm thông tin thư

viện

Đối với sinh viên

Trung tâm Thông tin - Thư viện, ĐHQGHN là Trung tâm thông tin văn

hóa, khoa học kỹ thuật của ĐHQGHN. Như vậy, ngoài chức năng đảm bảo và

phục vụ thông tin, tư liệu, sách báo cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học

của nhà trường như các cơ quan thông tin - thư viện khác, thư viện còn là một cơ

quan văn hóa giáo dục cho sinh viên. Bởi vì, đây là môi trường tốt nhất cho sinh

viên tự học, tự nghiên cứu trong quá trình học đại học. Việc học tập, nghiên cứu

tại thư viện giúp sinh viên có thói quen làm việc với sách báo, thông tin để biến

quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Với phương pháp giáo dục đổi mới

hiện nay và yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ, giáo viên chỉ giữ vai trò là

người hướng dẫn, người trọng tài đánh giá hoạt động tiếp nhận tri thức một cách

sáng tạo của học sinh. Đứng trước một vấn đề nào đó, học sinh phải tự học, tự

mình đặt ra những câu hỏi cốt lõi, tìm kiếm thông tin liên quan để khẳng định

hoặc phản bác những kiến thức cũ và đề xuất những kiến thức mới. Thông qua

việc học, học sinh phản hồi những kiến thức đã thu nhận được. Những hiểu biết

mới sẽ đề xuất những vấn đề mới để học sinh lại tiếp tục tìm hiểu. Trong quá

trình dạy và học đó, vai trò của thư viện ngày càng tăng lên với hai hướng giáo

dục: giáo dục cá nhân và tự học của sinh viên cùng với sự cung cấp thông tin đầy



27



đủ và gần nhất tới sinh viên. Thư viện là nơi mà học sinh có những cơ hội để

khám phá, thực hành và phát triển những kiến thức đã thu nhận được, nơi học

sinh – sinh viên có thể tự mình nêu ra những câu hỏi, vấn đề, tìm tòi và hình

thành những câu trả lời cho họ. Việc sử dụng thư viện sẽ tạo lập cho học sinh –

sinh viên những phẩm chất học tập độc lập, có khả năng lý giải các thông tin và

biến chúng thành kiến thức tự có của mình. Các kỹ năng tin học, học tập, các

phẩm chất nhân cách của học sinh được hình thành trong quá trình sử dụng thư

viện.

Đối với cán bộ giảng dạy, nghiên cứu

Bên cạnh đó, đây cũng là nơi giáo viên và cán bộ thư viện cùng làm việc

với nhau nhằm đánh giá, hướng dẫn và phát triển những gì học sinh thu nhận

được thông qua chương trình học, điều đó cũng góp phần tạo nên việc học của

học sinh có hiệu quả nhất. Đồng thời, họ cũng cùng nhau đặt ra các vấn đề mới

để học sinh tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu. Mặt khác, các giáo viên cũng là những

người sử dụng thư viện để chuẩn bị các hướng dẫn về “nguồn học liệu”; bởi vì

người thầy có vai trò “chỉ dẫn” cho sinh viên địa chỉ các nguồn thông tin cho họ

tự học, tự tích luỹ. Các nhu cầu xuất phát từ việc nâng cao trình độ và chất lượng

giảng dạy của giáo viên cũng có thể được đáp ứng nhờ sử dụng tài liệu và thông

tin của thư viện, điều này đặc biệt quan trọng trong việc biên soạn chương trình

giảng dạy theo học chế tín chỉ hiện nay.

Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lí

Trung tâm TT-TV có vai trò quan trọng trong việc giúp các cán bộ lãnh

đạo, cán bộ quản lí có những thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời nhằm hỗ trợ

kịp thời cho việc ra quyết định trong công tác lãnh đạo, quản lí và đổi mới các

công tác giáo dục- đào tạo.

1.3.2. Yêu cầu đối với hoạt động thông tin- thư viện tại Đại học quốc

gia Hà Nội trong quá trình đào tạo theo học chế tín chỉ

Như chúng ta đã biết việc chuyển đổi từ niên chế sang học chế tín chỉ ở

các trường đại học nước ta hiện nay là một vấn đề cấp bách, đòi hỏi sự chuyển

biến toàn diện, từ việc thiết kế lại chương trình, giáo trình, đến việc thay đổi



28



cách thức quản lý đào tạo, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ học tập trong các

trường đại học. Một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào

tạo theo học chế tín chỉ là hiệu quả hoạt động thông tin- thư viện trong nhà

trường. Nhiệm vụ của thư viện trong các trường đại học sẽ trở nên ngày càng lớn

hơn vì trong quá trình đào tạo khi chuyển đổi sang học chế tín chỉ, giảng viên và

sinh viên sẽ được tạo điều kiện tốt hơn trong việc tìm kiếm và sử dụng tài liệu

theo yêu cầu môn học. Trong xã hội ngày nay, người dùng tin có thể tìm và sử

dụng thông tin ở nhiều nguồn khác nhau ngoài thư viện, nhưng với tính chất là

một trung tâm thông tin - thư viện chuyên ngành, thư viện nhà trường sẽ là nơi

tập trung đầy đủ nhất nguồn lực thông tin trong lĩnh vực đào tạo của nhà trường.

Các dịch vụ thông tin cũng sẽ được tổ chức trên cơ sở tính đến đến tập quán, thói

quen cũng như tâm lý đặc thù của các nhóm người dùng tin trong trường. Chất

lượng hoạt động thông tin trong trường sẽ thể hiện ở mức độ đáp ứng nhu cầu tin

của sinh viên, giảng viên, đồng thời cũng là yếu tố kích thích nhu cầu tin của họ

ngày càng phát triển sâu sắc hơn, phong phú hơn. Đó là điều kiện quan trọng để

hình thành tính tích cực trong học tập của sinh viên, cũng như khả năng cập nhật

thông tin trong bài giảng của giáo viên, yếu tố hàng đầu đảm bảo chất lượng

phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ. một trong những điều kiện để chuyển

đổi phương thức giáo dục từ niên chế sang học chế tín chỉ đó là “phải có đủ giáo

trình, bài giảng, tài liệu tham khảo cho từng môn học”.

Để trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình học tập của sinh viên và

giảng dạy của đội ngũ giảng viên trong đào tạo theo tín chỉ, cần đảm bảo những

yêu cầu sau:

* Đảm bảo nguồn lực thông tin có chất lượng cao

Với vai trò là một động lực đóng góp vào việc cải tiến giáo dục, Thư viện

đại học có nhiệm vụ tuyển chọn và tiếp nhận các sách báo, tài liệu phù hợp của

mọi lĩnh vực của chương trình giáo dục và phản ánh tất cả những nguồn kinh

nghiệm và sự tiến bộ của toàn bộ thế giới, hầu có đủ dữ kiện để kích thích óc tò

mò, nhận xét và phán đoán của sinh viên trong quá trình học hỏi, sưu tầm, giúp

cho nền giáo dục đại học nước ta theo kịp và hội nhập cùng thế giới. Để hoàn



29



thành nhiệm vụ này, Thư viện đại học cần có một bộ sưu tập tài liệu đầy đủ mọi

loại, gồm sách giáo khoa, tài liệu phê bình khảo cứu, băng hình, đĩa CD-ROM.

Các sưu tập này phải rất phong phú, bao gồm các lãnh vực của giáo trình đại học

với một tuyển tập sách tham khảo (reference collection) thật đầy đủ và có tính

cách bác học để giúp sinh viên tìm tòi, khảo cứu, đồng thời giúp ban giảng huấn

cải tiến phương pháp giảng dạy ở đại học, nhằm chuyển phương pháp giảng dạy

từ thuyết trình sang phương pháp dạy học nêu tình huống có vấn đề thảo luận,

chuyển phương pháp học tập từ thuộc lòng sang phương pháp tìm tòi, phát minh,

sáng tạo. Ở đây, người Cán bộ Thư viện đại học sẽ đóng vai trò một thuyết

khách đối với ban giảng huấn và một hướng dẫn viên đối với các sinh viên trong

công việc khởi xướng và khuyến khích việc sử dụng sách báo, tài liệu của Thư

viện để tham khảo, sưu tầm, học hỏi thay cho những bài giảng và giáo trình.

Trong nền giáo dục đại học nhiều nước trên thế giới ngày nay, ở cuối mỗi

buổi học của môn học, người giáo viên thường chỉ nêu một vấn đề cần nghiên

cứu để giải quyết và chỉ cho sinh viên năm bảy cuốn sách để tìm đọc trong Thư

viện và làm bài tổng kết tóm tắt. Buổi học sau, sinh viên nộp bài và cùng nhau

thảo luận về vấn đề này, thầy làm trọng tài để xác định kiến thức hay cách giải

quyết nào là đúng đắn. Cuối mỗi môn học, sinh viên làm một khóa luận (term

paper) hay bài thực hành (practice) về một trọng tâm của chương trình. Giáo

viên đánh giá khả năng nhận thức của sinh viên trên các bài nộp hàng tuần và

cuối khóa chứ không phải trên bài thi viết, dùng trí nhớ của sinh viên ở cuối

khóa. Sau mỗi môn học như vậy sinh viên nắm vững phương pháp nghiên cứu và

thực hành môn học của mình.

Dĩ nhiên, để thiết lập được một Thư viện đại học có đầy đủ nguồn tư liệu

phản ánh được những kiến thức, kinh nghiệm phong phú như vậy để có thể thực

hiện được hai vai trò nêu trên, nó đòi hỏi một thời gian tích lũy lâu dài.

Nguồn lực thông tin phải đầy đủ các sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu

tham khảo bám sát chương trình đào tạo của trường. Bên cạnh đó còn là các

nguồn thông tin được bổ sung từ các báo cáo khoa học, báo - tạp chí, luận văn,

luận án, kỷ yếu hội nghị- hội thảo…Ngoài các dạng tài liệu truyền thống cần



30



phát huy các sản phẩm thông tin ở nhiều hình thức khác nhau: tài liệu điện tử, tài

liệu đa phương tiện…

Để nguồn lực thông tin- thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín

chỉ, trung tâm thông tin- thư viện cần phải tạo lập, xây dựng, duy trì, bảo quản

và phát triển hệ thống các kho thông tin; đa dạng hóa, phát triển các nguồn tin và

các kênh thu thập thông tin.

* Đáp ứng đầy đủ nhu cầu tin bằng nhiều phương thức khác nhau

Với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin như hiện nay, người

dùng tin có thể truy cập nguồn tin ở mọi lúc, mọi nơi. Để đảm bảo nguồn thông

tin phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của cán bộ, giảng viên

và sinh viên ĐHQGHN.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Trung tâm thông tin- thư viện cần đa dạng

hóa các loại hình dịch vụ và sản phẩm thông tin – thư viện. Mở rộng các dịch vụ

điện tử, chủ động giới thiệu và cung cấp thông tin cho người đọc, người dùng

tin. Cần có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa các sản phẩm- dịch vụ truyền thống

với các sản phẩm dịch vụ hiện đại để làm tăng chất lượng phục vụ bạn đọc. Cần

mở rộng và tăng cường bổ sung các tài liệu điện tử và các tài liệu ngoài sách vì

đây là một bộ phận quan trọng trong thư viện hiện đại. Phấn đấu nối mạng giữa

các thư viện với nhau trong hệ thống và thư viện bên ngoài nhằm làm phong phú

thêm nguồn thông tin, tăng cường khả năng khai thác tài liệu phục vụ nhu cầu

của cán bộ và sinh viên.

- Thống nhất quản lý nguồn tài nguyên thông tin của toàn trường

- Tăng cường phát triển nguồn lực thông tin cả về chất lượng và số lượng,

đặc biệt là nguồn học liệu phục vụ yêu cầu dạy và học theo tín chỉ.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc, đáp ứng tối đa yêu cầu

tìm kiếm tài liệu ngày càng gia tăng của NDT

- Đáp ứng kịp thời nhu cầu tin của người dùng tin

Đối với đào tạo theo học chế tín chỉ, thời gian tự học của sinh viên rất

nhiều hơn so với đào tạo theo niên chế. Mỗi sinh viên phải dành nhiều thời gian

để tự học, tự nghiên cứu mới có thể hoàn thành có số tín chỉ đã qui định. Cần



31



phải hiện đại hóa phương thức phục vụ đề ngày càng nâng cao hiệu quả các dịch

vụ tìm tin…

- Tổ chức, sắp xếp lại nguồn lực thông tin theo nhiều hình thức khác nhau

để có thể khai thác theo nhiều phương thức khác nhau, thỏa mãn nhu cầu tin của

người dùng tin một cách hiệu quả nhất.

- Cung cấp thêm các hình thức tổ chức phục vụ người dùng tin tiên tiến và

hiện đại, tạo ra nhiều điểm tiếp cận thông tin và tài liệu, điểm truy cập thông tin

đa dạng, phong phú cho NDT.

- Đảm bảo không gian thuận lợi cho người dùng tin

Đào tạo theo tín chỉ đòi hỏi các Trung tâm TT-TV không chỉ có đầy đủ

nguồn tài liệu mà còn là môi trường tốt và không gian tốt để học tập và nghiên

cứu. Thời lượng học, tự nghiên cứu tại thư viện sẽ nhiều hơn. Một giờ tín chỉ có

giá trì bằng một giờ lên lớp và hai giờ chuẩn bị bài ở nhà/1tuần, hay 2 giờ thực

hành và một giờ chuẩn bị bài/1tuần hoặc 3 giờ tự học, tự nghiên cứu/1tuần. Như

vậy mô hình đào tạo này đòi hỏi học viên tính tự giác, tự lập cao với thời lượng

tự học, tự nghiên cứu tại thư viện nhiều hơn, nơi có không gian học tập tốt..(máy

tính, chỗ ngồi, nguồn tài liệu đầy đủ nhất…). Sinh viên được đào tạo theo hình

thức tín chỉ sẽ phải thường xuyên thảo luận trên lớp. Như vậy, mô hình tín chỉ

không chỉ phát huy tính tự học mà còn rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm.

Chính vì vậy nhu cầu dùng các phòng riêng dành cho thảo luận và học nhóm là

đòi hỏi tất yếu. Đây là khó khăn chung cho các Trung tâm TT-TV khi khả năng

mở rộng diện tích, trang bị cơ sở vật chất còn hạn chế…

- Đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào hoạt động TT-TV

Hiện đại hóa các hệ thống trang thiết bị để truy cập, tra cứu thông tin, hỗ

trợ khả năng cung cấp thông tin đa nguồn, đa dịch vụ, mọi lúc, mọi nơi…

Theo Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng đơn vị đào tạo đại học

ĐHQGHN (ban hành theo Quyết định số 05/2005/QĐ-KĐCL ngày 13 tháng 12

năm 2005 của Giám đốc ĐHQGHN)



32



Mức 1: Cần có Trung tâm Thông tin - Thư viện với phòng đọc, sách báo,

tài liệu, sách tham khảo, giáo trình để phục vụ giảng dạy và NCKH. Hệ thống

thư viện được tin học hóa và có các tài liệu điện tử.

Mức 2: Thư viện được nối mạng, lên liên kết khai thác tài liệu với các

trường đại học khác, thường xuyên cập nhật tài liệu mới, có biện pháp khuyến

khích người học, giáo viên, cán bộ quản lý khai thác có hiệu quả các tài liệu thư

viện

Mức 3: Liên kết, hoà mạng với hệ thống thư viện của một số trường đại

học trong khu vực nhằm khai thác, sử dụng sách báo, tài liệu, đặc biệt là tài liệu

điện tử của nhau.

Mức 4: Có quan hệ trao đổi, hợp tác trong khai thác, sử dụng thông tin, tư

liệu với các thư viện đại học lớn trên thế giới.



33



Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN – THƯ VIỆN

PHỤC VỤ ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

2.1 Xây dựng và tổ chức quản lý nguồn lực thông tin

2.1.1 Bổ sung vốn tài liệu

Mục tiêu xây dựng nguồn thông tin (bổ sung tài liệu) là nhằm kiểm soát

được các nguồn tư liệu trong phạm vi cả nước, trên cơ sở bảo đảm nguồn bổ

sung thường xuyên và tạo lập các bộ sưu tập tư liệu khoa học tương ứng với

chức năng và nhiệm vụ đào tạo của trường ĐHQGHN.

Trung tâm thông tin - Thư viện ĐHQGHN đã xây dựng một chính sách

phát triển nguồn tài nguyên thông tin, hình thành những danh mục tài liệu hạt

nhân, bám sát và thích ứng với các mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực về khoa học

xã hội và nhân văn có chất lượng cao cho đất nước, đồng thời tạo lập mạng lưới

phối hợp bổ sung, chia sẻ nguồn lực thông tin, đáp ứng nhu cầu sử dụng tư liệu

đang ngày càng gia tăng của người sử dụng

Bổ sung tài liệu trong thư viện là một quá trình tìm kiếm, lựa chọn, thu

thập những tài liệu phù hợp với nhu cầu của người sử dụng thư viện, phù hợp

với chức năng, nhiệm vụ, với chiến lược phát triển của thư viện và của cơ quan

chủ quản. Đây là hoạt động nhằm xây dựng cho thư viện một bộ sưu tập riêng

biệt. Chính vì thế, nhiệm vụ và mục đích của công tác bổ sung cần phải xuất phát

từ nhiệm vụ và mục đích hoạt động, chiến lược phát triển của thư viện, của cơ

quan chủ quản, phải hỗ trợ cho việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan chủ quản

bằng cách bổ sung, xử lý và đảm bảo việc truy cập tới các tư liệu có trong bộ sưu

tập của thư viện cũng như các nguồn lực thông tin khác ngoài bộ sưu tập của thư

viện một cách hiệu quả, thông tin tìm được phải chính xác, đầy đủ, kịp thời và

thuận tiện cho người sử dụng. Công tác bổ sung là một công việc phải được tiến

hành thường xuyên, liên tục và không có điểm kết thúc.

Bổ sung vốn tài liệu là khâu đầu tiên trong dây chuyền thông tin – tư liệu.

Đây là hoạt động có ý nghĩa quyết định trong họat động thông tin thư viện. Vốn



34



tài liệu là một trong những yếu tố cấu thành nên thư viện, vốn tài liệu còn là cơ

sở, là tiêu chí để đánh giá sự phát triển của Trung tâm TT-TV. Tại Trung tâm

TT-TV ĐHQGHN công tác xây dựng và phát triển vốn tài liệu được giao cho

phòng Bổ sung- trao đổi tổ chức và thực hiện. Phòng có nhiệm vụ bổ sung cho

bộ sưu tập tài liệu của Trung tâm ngày chất lượng về nội dung, phong phú và đa

dạng về loại hình, thường xuyên được cập nhật phù hợp với các chuyên ngành

đào tạo của các trường đại học thành viên, các khoa trực thuộc của ĐHQGHN.

Ban lãnh đạo Trung tâm đã xây dựng chiến lược phát triển vốn tài liệu với

hai nhiệm vụ chính: Thanh lọc, hồi cố tài liệu cũ; đầu tư phát triển vốn tài liệu

mới đa dạng về thể loại, phong phú và chuyên sâu về nội dung nhằm đáp ứng

nhu cầu thông tin – tư liệu ngày càng cao của bạn đọc là cán bộ, giảng viên và

sinh viên trong ĐHQGHN. Với việc đưa phần mềm Libol vào các hoạt động

thông tin thư viện từ tháng 4/2002, công tác bổ sung có nhiều bước tiến vượt

bậc. Bắt đầu từ khâu đơn đặt, chức năng “kiểm tra” của phần mềm đã giúp cho

việc kiểm tra để tránh mua trùng bản đối với tài liệu in ấn, chức năng ‘thống kê”

đã phát huy tác dụng như là một công cụ giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu bổ

sung giữa các chủ đề, giữa các loại hình tài liệu sao cho hợp lý và khoa học.

Công tác phát triển vốn tài liệu của Trung tâm TT-TV được tiến hành

bằng nhiều hình thức:

- Mua tài liệu mới

Là hình thức bổ sung chủ yếu và thường xuyên. Hàng năm Trung tâm

dành 1/3 ngân sách để mua tài liệu. Trung tâm đã xây dựng chính sách bổ sung

“tăng cường số lượng đầu sách, giảm số bản của mỗi đầu sách”. Đồng thời, để

công tác bổ sung có chất lượng, phòng Bổ sung đã có các giải pháp như: Bám sát

chương trình đào tạo của các trường thành viên, các khoa trực thuộc, kết hợp với

việc tham khảo ý kiến đóng góp của các chuyên gia đầu ngành, đặc biệt là biện

pháp thường xuyên thăm dò nhu cầu tài liệu của đông đảo NDT trong

ĐHQGHN, từ đó nắm bắt được nhu cầu cần bổ sung tài liệu. Trung tâm thường

đặt mua sách giáo khoa, giáo trình và sách tham khảo của các nhà xuất bản, cơ

quan phát hành lớn như: NXB ĐHQGHN, NXB Văn hóa- Thông tin, NXB



35



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

×