Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 118 trang )
truyền thông có cơ hội làm truyền hình. Cũng từ đây, những chương trình có
cùng nội dung, cách thể hiện na ná nhau xuất hiện nhan nhản trên truyền hình
khiến khán giả lẫn lộn chương trình này sang chương trình khác. Đơn cử như
các chương trình xã hội từ thiện, HTV có những chương trình tương đối giống
nhau như: Vì ngày mai tươi sáng, Kết nối tương lai, Ưóc mơ đến trường…
Các chương trình mặc dù đã giúp cho những người nghèo có cơ hội được đổi
đời, các em học sinh, sinh viên được tiếp tục đến trường nhưng cách thể hiện
lại rập khuôn, không sinh động. Ở bản thân mỗi chương trình đều duy trì một
cách thể hiện “an toàn” nhất, ít có sự đầu tư đổi mới nâng cao chất lượng
chương trình. Việc quá nhiều các chương trình xã hội từ thiện đã khiến cho
mức độ quan tâm của khán giả giảm bớt. Họ chỉ chú trọng xem những chương
trình đã thành thương hiệu, mới mẻ hấp dẫn như Vượt lên chính mình, Ngôi
nhà mơ ước. Khảo sát 200 phiếu đánh giá ưu điểm chương trình có 138 phiếu
đánh giá ưu điểm lớn nhất của Vượt lên chính mình là nội dung, chiếm 69%.
Chính vì thế, mặc dù ra đời sau nhưng những chương trình đó vẫn chưa tạo
được dấu ấn trong lòng khán giả.
Chương trình Duyên dáng truyền hình, Album vàng do công ty Cát
Tiên Sa sản xuất có thế mạnh là các chương trình trực tiếp, phát trong khung
giờ vàng, được sự đầu tư của HTV để phát triển thành các chương trình mang
bản sắc của nhà đài đã trở thành một món ăn tinh thần thường xuyên của khán
giả. Tuy nhiên, khi nhận xét về hai chương trình này, ngoài những ý kiến
khen, còn có những ý kiến không hài lòng về nội dung: 48/200 phiếu rằng
chương trình Album Vàng có nội dung chưa hấp dẫn, chiếm 24%, 32 phiếu
đánh giá cách thể hiện chưa ấn tượng, chiếm 16%. Riêng Duyên dáng truyền
hình có 40 phiếu đánh giá không hài lòng về nội dung, chiếm 20 %. Duyên
dáng truyền hình được tổ chức định kỳ hằng năm, đã trải qua 5 lần tổ chức
nhưng kết cấu chương trình vẫn không thay đổi. Chương trình ổn định với
68
các phần thi: giới thiệu về quê hương, về nghề nghiệp, thi trang phục, thi năng
khiếu, câu chuyện truyền hình..Thậm chí những phần thi này còn được áp
dụng sang cho cả Duyên dáng truyền hình Asean. Việc tổ chức mỗi năm một
lần với cách tổ chức các phần thi, cách thể hiện duy trì ổn định qua các năm
một mặt giúp cho khán giả nhớ chương trình nhưng chính điều này sẽ gây
nhàm chán nếu chương trình được thực hiện liên tiếp nhiều năm. Duyên dáng
truyền hình, Album Vàng- những chương trình mang thương hiệu Cát Tiên Sa,
những chương trình được nhà đài ưu ái chắc chắn sẽ được thực hiện liên tục.
Đã qua 5 mùa tổ chức, các chương trình này cũng nên thay đổi để tạo cảm
giác mới mẻ, thích thú cho người xem.
Chương trình 12G lại có nhược điểm là quá tham thông tin. Có cảm
giác, nhà sản xuất muốn nhồi nhét lượng thông tin trong một chương trình
càng nhiều càng tốt. Những thông tin đủ mọi lĩnh vực: giá cả nông sản, giá cả
văn phòng phẩm..cùng đưa vào một chương trình khiến khán giả bội thực.
Với cách thể hiện “nhiều cửa” trong một chương trình đã tận dụng được
không gian của màn hình để chia nhỏ thông tin, tạo sự sinh động cho chương
trình tuy nhiên sự phân chia giữa các cửa không thật đồng đều, khoa học. Nội
dung MC đề cập thường không liên quan đến phần tin tức chạy chữ hàng
ngang, thậm chí còn chõi nhau. Những nhược điểm này nằm ở khâu biên tập
và kỹ thuật chưa được đầu tư kỹ.
Với mảng phim truyện, HTV là đơn vị thu hút nhiều nhà sản xuất tham
gia hợp tác nhất với 29 nhà sản xuất trong năm 2010, cao hơn VTV với 20
đơn vị. Các đơn vị sản xuất ngoài đài cùng bước vào cuộc đua làm phim
truyền hình quyết liệt. Tuy nhiên phim Việt thời gian qua lại rơi vào tình cảnh
“chiếu nhiều nhưng chất lượng không bao nhiêu” do sự lên sóng quá ồ ạt của
các phim truyền hình Việt Nam. Đây cũng chính là hạn chế của phim Việt
trong thời gian qua. Nhà sản xuất vì cần phim để phát sóng nên đưa vào
69
những kịch bản chưa được kiểm chứng chặt chẽ về giá trị dẫn tới chất lượng
không đảm bảo. Các nhà làm phim cũng chưa dám mạo hiểm để mở rộng đề
tài. Phần lớn các phim xoay quanh các đề tài như: sinh viên, cuộc sống gia
đình, tình yêu ..Cổng mặt trời do Nhất Tâm Lasta Film sản xuất được xếp bộ
phim truyền hình đáng xem nhất của năm 2010 theo kết quả của giải Mai
Vàng, báo Người lao động bình chọn. Tuy nhiên, cũng như nhược điểm của
các phim truyền hình khác, Cổng mặt trời có cốt truyện khá mỏng, đơn giản
nhưng phim quá dài, lê thê. Những chi tiết: sinh hoạt thường nhật, việc làm
quen và tán tỉnh của 5 chàng trai..có thể gói gọn trong một vài tập phim thì
được kéo dài gần 30 tập. Thêm nữa, có một số tình tiết cường điệu quá đà,
không thực. Diễn xuất của diễn viên cũng được cường điệu hóa để tăng tính
hài hước, tuy nhiên lại hơi quá đà khiến nhiều đoạn phim khiến khán giả phải
“cười gượng”. Bỏ qua những lỗi này, phim Cổng mặt trời vẫn là bộ phim
truyền hình đạt được thành công nhất năm 2010.
2.3.2 Nhân lực làm truyền hình còn nhiều hạn chế
HTV và hàng loạt hoạt động của các công ty truyền thông tư nhân với
đầy đủ các lĩnh vực như một đài truyền hình thu nhỏ đã khiến cho nhân lực
ngành truyền hình không đáp ứng đủ yêu cầu. Hiện nay, mỗi năm ở các
trường đào tạo ngành báo chí-truyền thông ở TP.HCM có khoảng 350 cử
nhân báo chí- truyền thông chính quy các bậc đào tạo ra trường, trong số đó
có một số tỏa đi làm việc tại các địa phương khác trong khu vực Nam bộ và
cả nước thì số không nhỏ ở lại vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của
địa bàn thành phố. Có một thực tế là mặc dù nhân lực của các công ty truyền
thông đều có trình độ Đại học nhưng rất ít trong số đó là tốt nghiệp chuyên
ngành báo chí truyền thông, đa phần là tốt nghiệp ở các chuyên ngành liên
quan như: sư phạm, ngữ văn, đông phương, xã hội học, văn hóa học..thậm chí
ở các chuyên ngành như: công nghệ sinh học, môi trường, kế toán hoàn toàn
70
không liên quan đến công việc biên tập, chủ nhiệm chương trình. Phần lớn
nhân viên này đều được học việc tại công ty qua 3 tháng thử việc, sau đó vừa
làm việc công ty vừa hướng dẫn đào tạo. Cát Tiên Sa có mô hình lớp học
được áp dụng hằng ngày, đưa vào chỉ tiêu thi đua khen thưởng cũng nhằm
mục đích nâng cao tay nghề, nghiệp vụ cho các nhân viên của mình. Hay như
ở Lasta trước đây thường tổ chức các lớp học nghiệp vụ do các chuyên gia
truyền hình của Thái Lan trực tiếp giảng dạy. Lasta cũng đã từng đưa nhân
viên của mình đi thực tế ở các đài, ở Campuchia, Thái Lan để họ có thêm vốn
sống và kinh nghiệm. Chính nhờ những hoạt động này mà tay nghề của nhân
viên được nâng cao, phục vụ tốt hơn cho công việc của công ty. Tuy nhiên ở
các công ty truyền thông luôn thu hút lượng nhân viên đông đảo nhưng khi đã
thạo việc, môi trường làm việc không như mong đợi họ cũng sẵn sàng nhảy
sang các công ty khác. Cho nên tính ổn định nhân sự ở các công ty truyền
thông là không cao. Hoặc cũng có trường hợp các công ty truyền thông đi săn
người giỏi, khiến nhiều công ty điêu đứng khi người họ cất công đào tạo
chuyển sang làm việc cho công ty đối thủ. Đây là tình trạng phổ biến trong
hoạt động của các công ty truyền thông tại TP.HCM hiện nay.
Chính vì tính ổn định của nhân sự không cao, trình độ chuyên môn còn
nhiều hạn chế mà chất lượng các chương trình truyền hình cũng bị ảnh hưởng.
Cái khó nhất của nhà đài trong XHH sản xuất chương trình truyền hình chính
là ở khâu quản lý chất lượng chương trình. Nhân sự làm truyền hình ở các
công ty truyền thông không được đào tạo bài bản, còn thiếu chuyên nghiệp là
một “bài toán khó” với cả nhà đài và công ty truyền thông. Nếu công ty
truyền thông đi lên bằng chất lượng các chương trình truyền hình họ phải đặc
biệt chú trọng đến khâu quản lý và đào tạo con người. Trong tình hình hiện
nay, rất ít công ty chịu khó đầu tư cho vấn đề này. Sự dễ dãi trong tuyển dụng
và sử dụng nhân sự khiến cho chương trình chưa được đầu tư đúng mức. Điều
71
này có thể hiểu được khi nhìn vào chất lượng các chương trình không đồng
đều đang phát sóng hiện nay.
2.3.3. Lợi nhuận kinh doanh chi phối chất lượng chương trình
Lợi nhuận trong sản xuất chương trình truyền hình là điều mà bất cứ
công ty truyền thông nào khi tham gia hợp tác với nhà đài đều hướng đến.
Phương thức kinh doanh hiệu quả nhất là có nhà tài trợ cho mỗi chương trình
sẽ đảm bảo được cho nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn, có thêm lợi
nhuận. Nếu không kiếm được nhà tài trợ, nhà sản xuất chọn phương án tự bỏ
vốn sản xuất chương trình, sau đó đi kiếm quảng cáo phát vào chương trình.
Cách làm này tuy có vất vả hơn, đòi hỏi có mối quan hệ tốt với các doanh
nghiệp và đội ngũ kinh doanh giỏi nhưng cũng được nhiều công ty áp dụng.
Hiện nay, đang có một thực tế là các nhà tài trợ can thiệp vào nội dung
chương trình khiến khán giả truyền hình trở nên mệt mỏi. Trong 200 phiếu
khảo sát mà chúng tôi thực hiện, có nhiều ý kiến than phiền về hình thức sự
tham gia của nhà tài trợ trong chương trình, các ý kiến cho rằng “của cho
không bằng cách cho”, nhà tài trợ nên xem xét lại cách trao tiền, đơn vị sản
xuất cũng nên tìm cách thể hiện cho khéo léo hơn để chương trình thật sự
mang tính nhân văn, tạo được tình cảm đẹp trong lòng khán giả. Việc trả chi
phí làm chương trình bằng quảng cáo cho các đơn vị liên kết, đôi khi trở
thành áp lực với cả đơn vị liên kết lẫn đài truyền hình, nhất là với mạng
truyền hình trả tiền. Công ty truyền thông phải đảm bảo số lượng quảng cáo
với nhà đài thì mới được đài chi trả phần chi phí sản xuất. Tuy nhiên, quảng
cáo quá nhiều đã khiến khán giả ngán ngẩm, họ sẽ dễ dàng chuyển kênh nếu
đang xem chương trình mà bị cắt ngang bởi quảng cáo.
Trong thời buổi các công ty truyền thông nở rộ, sản xuất chương trình
truyền hình được nhiều công ty tham gia, các doanh nghiệp cũng khó khăn
hơn trong tài trợ chương trình và quảng cáo. Các công ty truyền thông chọn
72
giải pháp giảm bớt chi phí sản xuất đến mức thấp nhất để tăng lợi nhuận.
Giảm người, một người kiêm nhiều việc hay giảm thời gian đi quay, dựng hậu
kỳ trong khi tiền lương nhân viên không tăng đều được các công ty tính toán
và áp dụng. Chính vì thế, một chương trình truyền hình thời gian đầu được
đầu tư công phu, khi phát sóng thu hút được sự theo dõi của khán giả nhưng
chỉ sau một thời gian phát sóng đã cho thấy sự cũ mòn, không có cải tiến. Đó
cũng là lý do mà thời gian qua, chương trình truyền hình do công ty truyền
thông sản xuất phát sóng ồ ạt nhưng ít có chương trình nào đọng lại ấn tượng
sâu sắc với khán giả.
73
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Chương 2 giới thiệu hoạt động của HTV, những thành công của HTV
trong giai đoạn từ 1987 đến nay. Chính những thành công này là cơ sở để tạo
điều kiện cho XHH sản xuất chương trình truyền hình được diễn ra, các
chương trình được phép XHH sản xuất chủ yếu ở các lĩnh vực: thông tin kinh
tế, giải trí, văn hóa, nghệ thuật, phim truyện. Đây cũng chính là mảng thu hút
nhiều khán giả truyền hình theo dõi nhất. Đối với công ty truyền thông, đối
tượng tham gia vào XHH sản xuất chương trình truyền hình, phương thức hợp
tác được HTV áp dụng trong nhiều năm qua là phương thức trao đổi quyền lợi
bằng quảng cáo. Công ty truyền thông sản xuất chương trình cho HTV, ngược
lại HTV trả chi phí sản xuất cho công ty bằng quảng cáo. Để đảm bảo quyền
lợi mỗi bên, công ty phải ký hợp đồng cam kết nâng cao chất lượng chương
trình với HTV, trong đó tiêu chí để đánh giá hiệu quả chương trình được tính
bằng số lượng quảng cáo trong chương trình. Phương thức trao đổi quyền lợi
này đã buộc các công ty truyền thông tư nhân vừa phải là nhà sản xuất tốt,
vừa phải là nhà kinh doanh giỏi thì mới tồn tại được.
Chương 2 với các dẫn chứng thực tế, trong đó phân tích một số chương
trình cụ thể: 12G, Góc luật sư, Duyên dáng truyền hình, Album vàng, Vượt
lên chính mình, phim Cổng mặt trời, người viết đã chỉ ra những thành công
của từng chương trình, phân tích các yếu tố làm nên thành công cũng như
những hạn chế của từng chương trình này. Trong hàng trăm chương trình do
công ty truyền thông thực hiện đang phát sóng trên HTV, những chương trình
người viết khảo sát đều thu được phản hồi tốt của khán giả, là những chương
trình tạo bản sắc riêng của nhà đài và của công ty truyền thông. Sự phát sóng
liên tục của các chương trình này trong những năm qua đã khẳng định các
chương trình truyền hình do công ty truyền thông thực hiện có thể tồn tại
74
được, thu hút được sự theo dõi của khán giả, được nhà đài đánh giá tốt nếu
đảm bảo: nội dung phong phú, nhân lực làm truyền hình chuyên nghiệp, có
vốn dồi dào và khả năng kinh doanh hiệu quả. Tuy nhiên, các chương trình
trên cũng có nhiều điểm hạn chế. Từ những hạn chế đó, người viết đã khái
quát, đánh giá hạn chế chung của các chương trình XHH ở khâu sản xuất như:
chất lượng không đồng đều, nội dung ít thay đổi, nhân lực làm truyền hình
còn thiếu và yếu, mức độ đầu tư cho chương trình không cao, nhà sản xuất bị
chi phối bởi yếu tố lợi nhuận dẫn đến chất lượng chương trình chưa được đầu
tư hiệu quả. Từ thực tế hoạt động của các công ty Cát Tiên Sa, Lasta, Hoa
Hồng Vàng, người viết đã có những phân tích, đánh giá những yếu tố dẫn đến
thành công cũng như hạn chế trong sản xuất chương trình truyền hình. Chính
vì những lý do đó, trong hàng trăm công ty truyền thông hợp tác với HTV và
hàng ngàn công ty truyền thông hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chương
trình ở TP.HCM chỉ có vài công ty được khán giả nhớ mặt, đặt tên bằng chính
chất lượng chương trình. XHH sản xuất chương trình truyền hình là một một
cuộc đua đường dài, chỉ những công ty có thực lực mới có khả năng trở thành
nhà sản xuất chương trình truyền hình chuyên nghiệp.
Chương 1, chương 2 và dựa trên những tài liệu đã thu thập được về lĩnh
vực truyền hình nói chung, XHH sản xuất các chương trình truyền hình nói
riêng cũng như kinh nghiệm thực tế của người viết, người viết sẽ đưa ra
những kiến nghị và giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng chương trình
truyền hình được XHH ở HTV trong xu thế phát triển của truyền hình hiện
nay.
75
CHƢƠNG 3
KINH NGHIỆM, GIẢI PHÁP VÀ MÔ HÌNH XÃ HỘI HÓA
SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
3.1 Một số kinh nghiệm rút ra trong xã hội hóa sản xuất chƣơng trình
truyền hình
3.1.1 Về nội dung
Đòi hỏi của công chúng về chất lượng chương trình ngày càng cao, nó
trở thành nguyên nhân quan trọng trong việc công chúng đến với truyền hình
ngày càng đông đảo hơn mà yếu tố quyết định nằm ở sự cải tiến nội dung đi
kèm với hình thức thông tin phù hợp. Cũng như tất cả các phương tiện truyền
thông khác, truyền hình sẽ được công chúng xem nhiều hơn nếu các chương
trình hấp dẫn hơn, sát với cuộc sống hơn.
Sự tham gia của các công ty truyền thông trong sản xuất chương trình
truyền hình cho nhà đài đã trở nên phổ biến, những chương trình truyền hình
do công ty truyền thông sản xuất đã quen thuộc với khán giả truyền hình. Sức
sống của các chương trình truyền hình là ở khả năng thu hút người xem. Khán
giả là đối tượng hướng tới của các chương trình truyền hình, họ chính là
người quyết định thành công hay thất bại ở mỗi chương trình phát sóng. Nhất
là hiện nay, sự cạnh tranh giữa các đài truyền hình, các kênh truyền hình và ở
các chương trình truyền hình ngày càng gay gắt. Khán giả có quyền lựa chọn
chương trình nào phù hợp và hấp dẫn họ. Trong quá trình sản xuất chương
trình truyền hình, các công ty truyền thông phải đặc biệt chú trọng đến nhu
cầu, thị hiếu của khán giả. Nếu làm truyền hình theo ý kiến chủ quan của nhà
sản xuất chương trình sẽ nhanh chóng bị khán giả lãng quên. Chương trình
buộc phải mang tính xã hội rộng lớn, phải tăng tính cọ xát với công chúng.
Ngày nay, khi truyền hình vẫn còn là sự lựa chọn ưu tiên của mọi người,
76