Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 139 trang )
Mỗi loài thuỷ sinh vật có một đặc tính thẩm thấu, một khả năng điều hoà thẩm
thấu riêng. Vì vậy mỗi loài chỉ sống được trong một môi trường có nồng độ
muối, thành phần ion nhất định và có khả năng thích ứng với một biên độ dao
động nhất định của nồng độ muối. Có thể có những loài thích ứng muối rộng
hay thích ứng muối hẹp.
Theo đặc điểm về nồng độ muối của thuỷ vực chúng sống, trong đó tương ứng
với sự phân chia các thuỷ vực trên trái đất theo nồng độ muối. Có thể phân chia
thuỷ sinh vật sống trong thuỷ quyển thành bốn đơn vị phân bố: khu hệ thuỷ sinh
vật nước quá mặn, nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Trong mỗi khu hệ thuỷ
sinh vật đều có một thành phần loài đặc trưng, gồm các loài thích ứng muối hẹp
là thành phần loài cơ bản. Đồng thời còn có một số ít loài thích ứng muối rộng,
từ các thuỷ vực có nồng độ muối khác di nhập vào. Xét về phương diện phân bố
cũng như về cấu tạo thành phần loài, có thể coi hai khu hệ thuỷ sinh vật nước
mặn và nước ngọt là hai đơn vị cơ bản nhất, là hai vùng phân bố lớn nhất của
thuỷ sinh vật trong thuỷ quyển. Khu hệ thuỷ sinh vật nước lợ mang tính chất một
đơn vị trung gian, ở trong một vùng phân bố chuyển tiếp. Khu hệ thuỷ sinh vật
nước quá mặn có vùng phân bố rất hẹp, hạn chế trong một số hồ nước mặn nội
địa. Sự biến đổi của nồng độ muối trong thuỷ vực, tăng lên hay nhạt đi, hay sự
di chuyển của thuỷ sinh vật sang các thuỷ vực có nồng độ muối khác nhau đều
làm thay đổi đặc tính của mỗi khu hệ thuỷ sinh vật, thay đổi hoạt động sống của
mỗi loài thuỷ sinh vật. Một khi sự thay đổi nồng độ muối vượt quá giới hạn 5 8% cao hơn hay thấp hơn, được coi là ngưỡng sinh lý của mô sinh vật.
Qui luật biến đổi chung của thuỷ sinh vật theo sự biến đổi của nồng độ muối là
khi nồng độ muối của môi trường tăng lên hay giảm đi, thành phần loài và
thường cả số lượng đều nghèo đi, kích thước cơ thể trung bình cũng giảm đi.
Trong trường hợp nồng độ muối biến đổi theo hướng hạ thấp (nước biển nhạt đi
hay sinh vật biển đi vào nước ngọt) số lượng trứng trở nên ít đi, nhưng kích
thước trứng lớn lên, chứa nhiều noãn hoàng hơn.
•
Khu hệ thủy sinh vật nước mặn: Vùng phân bố của khu hệ thuỷ sinh vật
nước mặn là hải dương, các vùng ven biển lục địa, và các biển kín nội
địa. Khu hệ thuỷ sinh vật nước mặn bao gồm các sinh vật thích ứng với
nồng độ muối trong khoảng 30 -38%o. Khu hệ thuỷ sinh vật nước mặn là
khu hệ sinh vật cổ, gồm một số lượng và khối lượng lớn thuỷ sinh vật.
Tổng số loài sinh vật biển khoảng 300.000 loài. Thành phần loài khu hệ
thuỷ sinh vật nước mặn đặc trưng bởi nhiều nhóm động vật chỉ có ở biển
như da gai, san hô, Pogonophra, mực, động vật có vú ở biển. Trong
thành phần thực vật nổi (Phytoplankton) chiếm ưu thế là tảo khuê
(Diatomeae), tảo giáp (Peridieae), tảo lam phát triển rất kém. Trong thành
phần động vật nổi (Zooplankton) (1.200 loài) chiếm ưu thế là động vật
nguyên sinh, giáp xác nhỏ, trong đó chủ yếu là Copepoda (750 loài),
Euphausiacea (trên 80 loài), Mysidacea, Amphipoda (trên 300 loài). Ngoài
ra còn có các loại sứa dù, sứa ống, sứa lược, hàm tơ (Sagiha), thân mềm
sống nổi (Alciopidae, Tomopteridea). Thành phần sinh vật tự bơi ở biển
phong phú, gồm các nhóm: cá, bò sát biển, động vật có vú, mực, giáp xác
•
cao, đều là các đối tượng có giá trị khai thác cao. Thực vật đáy biển gồm
các loài tảo nâu, tảo đỏ, tảo lục chiếm ưu thế. Thực vật có hoa rất ít. Động
vật đáy biển rất đa dạng, có khi hầu như bao gồm cả từng ngành động vật
như hải miên, Bonyozoa, Brachiopoda, da gai, Pogonophra. Trong thành
phần động vật đáy chiếm ưu thế là giáp xác cao, thân mềm, giun nhiều tơ,
giun vòi, hải tiêu, da gai. Khối lượng sinh vật đáy lớn nhất ở vùng ven biển
và giảm dần theo độ sâu. Ngoài ra còn phải kể đến vi sinh vật biển, có vai
trò quan trọng trong nước, số lượng có thể tới 10 -100 nghìn cá thể/ml,
sống trong tầng nước và nền đáy
Khu hệ thuỷ sinh vật nước ngọt: Bao gồm các thuỷ sinh vật thích ứng với
nồng độ muối trong khoảng 0,5 - 5%o. Vùng phân bố của chúng là các
thuỷ vực nước ngọt nội địa. Trong thành phần nầy có nhiều sinh vật ở
nước thứ sinh. Ngoài ra cũng có nhiều loài sinh vật biển rộng muối di
nhập vào theo đường cửa sông hay nước ngầm ven biển.
So sánh với khu hệ thuỷ sinh vật nước mặn hải dương ta thấy:
•
•
•
•
Khu hệ thuỷ sinh vật nước ngọt kém đa dạng hơn, ít đơn vị phân loại hơn.
Khu hệ thuỷ sinh vật nước ngọt có nhiều thực vật lớn có hoa, tảo lam và
tảo lục phát triển mạnh.
Sinh vật nước ngọt có nhều biến đổi trong nội bộ loài, hình thành nhiều
đơn vị phân loại dưới loài và có nhiều dạng phân bố trên thế giới
(cosmopolit).
Thuỷ sinh vật nước ngọt thường có kích thước trung bình nhỏ hơn, số
lượng trứng ít hơn, nhưng chứa nhiều noãn hoàng dự trữ.
Về nguồn gốc có thể của khu hệ thuỷ sinh vật nước ngọt có thể hình thành theo
ba đường: từ biển đi vào nước ngọt, từ trên cạn xuống nước ngọt và phát sinh
từ thuỷ vực nước ngọt.
Hiện tượng đi vào nước ngọt của sinh vật biển hiện nay vẫn còn tiếp diễn bằng
nhiều con đường như: qua các cửa sông và vùng nước lợ ven biển, qua các
vùng nước ngầm ven biển và qua vùng triều lên cạn rồi xuống nước ngọt.
•
Khu hệ thủy sinh vật nước lợ: Gồm các sinh vật thích ứng với nồng độ
muối từ 1 - 30%o, trung bình từ 10-20 %o. Thành phần loài rất phức tạp,
có tính hổn hợp, gồm ba thành phần:
o Thuỷ sinh vật từ biển vào
o Thuỷ sinh vật từ nước ngọt di nhập vào
o Thuỷ sinh vật đặc trưng cho vùng nước lợ
Hai nhóm trên không có khả năng sinh sản, chỉ sống ở nước lợ trong giai đoạn
trước thời kỳ sinh sản, nhóm thứ ba có chu trình sống hoàn toàn ở nước lợ.
Biến đổi thành phần loài của các thuỷ vực nước lợ .
•
Khu hệ thủy sinh vật nước quá mặn: Do nồng độ muối của thuỷ vực rất
cao (trên 47%o), muối hoà tan có thể đến bảo hoà nên chỉ có các sinh vật
hẹp muối sống được ở đáy. Thành phần loài ở vùng nước quá mặn
nghèo nàn, chủ yếu là nhóm giáp xác chân mang Phyllopoda (Artemia
salina sống được ở nồng độ muối 200%o, các loài trùng roi (Duniliella
salina, Asteromonas gracilis). Ngoài ra còn có một số loài ấu trùng muỗi
thích ứng với nồng độ muối cao (Culieoides salinarius, Chironomus
halophilus), giáp xác nhỏ (Diaptomus salinus) sinh sống khi nồng độ muối
ở dưới 100%o. Ở các thuỷ vực nước quá mặn ven biển, ngoài các dạng
sinh vật đặc trưng của thuỷ vực đó, còn có các thuỷ sinh vật biển di nhập
vào.
Biến động về phân bố của thủy sinh vật trong thủy quyển
Hình thái phân bố của thuỷ sinh vật trong thuỷ quyển không phải lúc nào cũng
ổn định. Trong từng thời gian, do nhiều nguyên nhân khác nhau, vùng phân bố
của nhiều nhóm, nhiêù loài của thuỷ sinh vật có những biến động làm thay đổi
hình thái phân bố của chúng trong thuỷ quyển. Biến động phân bố của thuỷ sinh
vật có thể xảy ra theo chiều ngang, từ vùng nầy qua vùng khác, hay cũng có thể
theo chiều thẳng đứng, từ vùng nông tới vùng sâu, từ tầng đáy lên tầng mặt. Xét
về tính chất của biến động có thể chia thành hai loại: biến động không có qui
luật và biến động có qui luật.
•
•
Biến động không qui luật: Biến động nầy do nguyên nhân đột xuất,
thường là do nguyên nhân nhân tác, làm thay đổi vùng phân bố của sinh
vật theo một chiều, không thành chu kỳ. vùng phân bố của thuỷ sinh vật
được mở rộng hay hẹp lại, rồi không trở lại giới hạn ban đầu nữa.
Biến động có qui luật: Biến động nầy có tính chất tuần hoàn, xảy do
những yêu cầu trong đời sống. Thuỷ sinh vật loại nầy, tuỳ theo đặc điểm
sinh học của chúng, ở từng thời kỳ trong chu trình sống di chuyển sang
một nơi khác, tạm thời thay đổi vùng phân bố của chúng. Hết thời kỳ nầy,
chúng trở lại giới hạn vùng phân bố ban đầu. Lối di chuyển có tính cách
tuần hoàn nầy rất đa dạng, do nhiều nguyên nhân, nhiều khi chưa được
giải thích rõ ràng. Có thể phân biệt các loại sau:
o Di chuyển trong đời sống: Đây là lối di chuyển của thuỷ sinh vật
trong một giai đoạn của chu trình sống ra khỏi vùng phân bố chính
thức để tìm nơi có điều kiện tốt, hoàn thành một khâu trong chu
trình sống của chúng như sinh đẻ, tìm thức ăn, trú đông….
o Di chuyển ngày đêm: Đây là hiện tượng di chuyển vĩ đại trong thuỷ
quyển, chúng có thể di chuyển chủ động (giáp xác, cá, ấu trùng
côn trùng sống đáy) hay thụ động. Các loại tảo do quang hợp,
trong cơ thể chứa đầy Oxy nên ban ngày nổi trên tầng mặt của
nước, đêm lại chìm xuống khi Oxy đã sử dụng hết. Phạm vi di
chuyển ngày đêm có thể từ vài mét đến vài trăm mét theo chiều
thẳng đứng, tuỳ thuộc vào chế độ nhiệt độ, nồng độ muối, chế độ
Oxy và độ lớn của cơ thể thuỷ sinh vật. Tốc độ di chuyển từ vài mét
đến hàng trăm mét/giờ. Nguyên nhân gây ra hiện tượng di chuyển
nầy thì rất nhiều, nhưng nguyên nhân sinh học là chủ yếu, ánh
sáng chỉ là yếu tố tín hiệu.
o Di nhập vào nội địa của thủy sinh vật biển: Đây là hiện tượng di
chuyển có chu kỳ và không có chu kỳ của sinh vật, chủ yếu là động
vật, thấy ở vùng biển ôn đới cũng như nhiệt đới. Chúng đi vào sâu
trong thuỷ vực nội địa, tạm thời hay vĩnh viễn.
Các sinh vật có khả năng di nhập là loài có vỏ chắc, đồng thời có khả năng điều
hoà áp suất thẩm thấu chủ động, thích ứng độ muối rộng và có khả năng di
động tốt. Nguyên nhân di nhập có thể để sinh sản, tìm thức ăn, tránh kẻ thù hay
ngẫu nhiên. Con đường di nhập thuận lợi và phổ biến là qua cửa sông hay qua
vùng nước lợ ven biển, nước ngầm ven biển và có thể xem đây là một trong
những con đường hình thành khu hệ thuỷ sinh vật nước ngọt từ khu hệ thuỷ
sinh vật biển. Trong cả quá trình nầy, sinh vật biển thích ứng dần với điều kiện
môi trường nước ngọt ở nhiều mức độ khác nhau. Căn cứ vào mức độ thích
ứng, có thể chia thuỷ sinh vật biển di nhập vào nước ngọt thành bốn nhóm.
•
•
Nhóm di nhập tạm thời: Bao gồm các loài chỉ di nhập vào nước ngọt trước
hay trong thời kỳ sinh sản. Hết thời kỳ nầy, chúng trở về môi trường biển
để hoàn thành chu trình sống. Nếu không trở lại được thì chúng không thể
tiếp tục phát triển trong môi trường nước ngọt. Môi trường nước ngọt chỉ
là môi trường sống tạm thời.
Nhóm di nhập thích ứng nước lợ
Gồm mhững sinh vật biển thích ứng với nồng độ muối thấp hơn nồng độ muối ở
hải dương, nhưng vẫn chưa tách biệt với đời sống nước mặn ở biển. Đây là
những thuỷ sinh vật nước lợ, có thể sống và sinh sản bình thường ở điều kiện
nước lợ và cả vùng nước ngọt tiếp cận, đồng thời vẫn có thể sống ở điều kiện
nước mặn hải dương.
•
•
Nhóm di nhập thích ứng nước ngọt: Đây là các sinh vật biển đã thích ứng
hoàn toàn với điều kiện môi trường nước ngọt, sống và phát triển chủ yếu
ở nước ngọt nội địa. Tuy vẫn có khả năng sống ở nước lợ, nhưng không
còn khả năng sống ở vùng nước mặn hải dương.
Nhóm di lưu: Khác với loài thuộc nhóm thứ ba, thường chỉ sống ở vùng
nước ngọt ven biển, các loài nầy phân bố ở các vùng hoàn toàn cách biệt
với môi trường biển, khác xa môi trường sống ở biển.
Đời sống quần thể và quần loại của thủy sinh vật
Quần thể (Population) là nhóm cá thể thuộc một loài sinh vật sống trong một khu
vực nhất định ở vùng phân bố của loài. Quần thể là hình thức tồn tại cụ thể của
loài trong thiên nhiên và là một thành phần của một quần loại sinh vật
(Biocoenosis) nhất định. Quần thể do nhiều cá thể tập hợp lại thành. Nhưng
trong tập hợp có mối quan hệ chặt chẽ và có qui luật giữa các cá thể. Điều nầy