Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.47 KB, 48 trang )
Hình 1. Sơ đồ công nghệ sản xuất anhydrite phthalic từ o-xylen
3.1.1. Các phản ứng hóa học xảy ra trong quá trình.
Phản ứng hóa học chính xảy ra như sau:
C6H4(CH3)2
+
3O2
C6H4(CO)2O
+
3H2O
+
3H2O
Phản ứng này xảy ra ở pha hơi và cần có xúc tác là V2O5.
Các phản ứng phụ:
C6H4(CH3)2
+
3O2
C6H4(CO)2O
C6H4(CH3)2
+
10O2
8CO2 + 5H2O
3.1.2. Nguyên liệu của quá trình sản xuất anhydit phthalic từ o-xylen.
Nguyên liệu của quá trình sản xuất anhydrit phthalic bằng phương pháp oxy hóa
o-xylen thì ngoài o-xylen còn có không khí( chủ yếu là cung cấp oxy cho phản
ứng oxy hóa), lưu huỳnh dioxit.
Các nguồn cung cấp xylen thì chứa tới 95%( tính theo trọng lượng) là o-xylen,
5% còn lại là các m-xylen và p-xylen.
Trong quá trình phản ứng thì chỉ có o-xylen bị oxy hóa tạo ra anhydrit phthaic
còn m-xylen và p-xylen
dưới điều kiện của lò phản ứng thì nó tạo ra các sản phẩm khác mà chủ yếu là
Cacbon oxit và nước. tuy nhiên trong quá trình sản xuất anhydrit phthalic thì pxylen bị oxy hóa tạo ra anhydrit maleic, p-tolualdehy, axit p-toluic, axit
terephthalic. Trong khi đó m-xylen bị oxy hóa tạo ra anhydrit maleic, axit
isophthalic, m-tolualdehy và p-benzoquinone.
Không khí sau quá trình lọc để loại bỏ các tạp chất( chủ yếu là bụi) người ta đem
nén dưới áp suất từ 48,2 Kpa đến 55,2 Kpa và được làm nóng đến 149 0C bằng
hơi nước. nguyên liệu o-xylen cũng được làm nóng và bay hơi vào dòng không
9
khí nóng. Một lượng nhỏ lưu huỳnh dioxit ( 0,2% đến 2,5% theo trong lượng)
cũng được đưa vào trong quá trình để duy trì hoạt tính của chất xúc tác ( V2O5).
3.1.3. Lò phản ứng.
Trong lò phản ứng thì tỉ lệ theo trọng lượng giữa không khí và nguyên liệu oxylen là 25,tương đương với 1 mol phần trăm xylen.Tỉ lệ theo trọng lượng thấp
nhất là 20 và cao nhất là 34. Không khí được đưa vào lò phản ứng phải dư để
đảm bảo tỉ lệ hỗn hợp thấp hơn giới hạn nổ. Sau khi loại bỏ các nguyên liệu bốc
hơi, các chất phản ứng với nhau trong lò phản ứng ở nhiệt độ khoảng 380 oC.
Nhiệt độ trong lò phản ứng được duy trì từ 300 oC đến 390 oC.
Lò phản ứng BASF có công suất 1,44.104 tấn/năm thì nó có đường kính 4,2 mét.
Trong lò phản ứng có chứa 9,948 ống chứa đầy chất xúc tác, mỗi ống dài 3m.
Cũng có một số nhà máy sử dụng số ống đựng chất xúc tác lớn hơn 9,948
ống( khoảng 13000 ống). Các phản ứng trong lò phản ứng đều là các phản ứng
tỏa nhiệt nên nhiệt độ trong lò phản ứng rất cao. Để duy trì nhiệt độ phản ứng và
để tránh hỏng lò phản ứng bởi nhiệt độ cao thì người ta làm mát các lò phản ứng
bằng cách cho các chất tải nhiệt chảy bên ngoài lò phản ứng( vỏ của lò phản
ứng). Các chất tải nhiệt có thể là muối của natri, kali( NaCl, KaCl, Na2CO3,
K2CO3.....). Khi đó các chất tải nhiệt này có nhiệt độ cao tiếp tục được đưa đến
bộ phận trao đổi nhiệt, người ta tận dụng nhiệt lượng này để sản xuất hơi nước
có áp suất cao. Khí đi ra lò phản ứng có nhiệt độ cao( khoảng 375oC), Khí này
được dẫn vào nồi hơi để tận dụng nhiệt phục vụ cho quá trình sinh hơi.
Trong lò phản ứng, phản ứng oxi hóa xylen là hoàn toàn (100%). Với mỗi
kilogram nguyên liệu chứa 95% o-xylen ta thu được 1,03 kilogram anhydrit
phthalic. Theo lí thuyết thì với 1 kg nguyên liệu chứa 100% o-xylen ta thu được
1,39 kg anhydrit phthalic.
10
3.1.4 Quá trình chuyển đổi trong thiết bị ngưng tụ.
Do không khí được sử dụng trong các lò phản ứng vượt quá 567%. Áp suất
riêng phần của anhydrit phthalic trong dòng khí phun ra là như vậy nên nhiệt độ
điểm sương thấp hơn nhiệt độ nóng chảy ( 130,8oC) của anhydrit phthalic. Do đó
các sản phẩm bị ngưng tụ và bị đóng rắn. Các sản phẩm ngưng tụ trên các ống
của thiết bị ngưng tụ. Các thiết bị ngưng tụ được luân phiên làm nóng và làm
lạnh bằng dòng dầu truyền nhiệt riêng biệt theo một chu kì điều khiển tự động.
Trong phần làm mát của chu kì anhydrit phthalic kết kinh trên bề mặt ngoài của
ống. Trong phần làm nóng của chu kì anhydrit phthalic được làm nóng chảy, sau
đó nó được đưa đến bể chứa các sản phẩm thô. Một quá trình điển hình là sử
dụng liên tiếp chín thiết bị ngưng tụ. trong đó, sáu thiết bị đang ngưng tụ, hai
thiết bị có nhiệm vụ làm tan chảy. Thiết bị thứ chín ở chế độ chờ, nó có nhiệm
vụ làm sạch và bảo trì để các quá trình diễn ra không bị gián đoạn. Khí còn sót
lại trên thiết bị ngưng tụ có nhiệt độ khoảng 66oC và áp suất khoảng 26 Kpa, nó
sẽ chuyển đến lò đốt và được đốt tại đây.
3.1.5. Qúa trình làm sạch sản phẩm
Sau khi thu được sản phẩm thô thì trong sảm phẩm thô vẫn còn tạp chất, chính
vì thế ta phải có quá trình làm sạch sản phẩm.
Trong sản phẩm thô có chứa 99% đến 99,5% anhydrit phthalic cũng như axit
phthalic, nó được lưu giữ ở 149 oC dưới áp suất khí quyển. Qúa trình làm sạch
sản phẩm gồm hai bước đó là các bước xử lí nhiệt và bước chưng chất chân
không.
Trong bước xử lí nhiệt, sản phẩm thô sau khi đi qua thiết bị sấy và được sấy khô
nó sẽ được đưa đến các bể chứa tiền xử lý, tại đây nó được lưu giữ trong điền
kiện nhiệt độ cao dưới chân không trong khoảng thời gian từ 8 đên 12 giờ. Mục
đích của quá trình xử lí nhiệt là phân hủy các hợp chất tạo màu và chuyển đổi
chúng sang các chất có phân tử khối lớn và có thể được tách ra từ sản phẩm
chính thông qua quá trình chưng cất. Đồng thời axit phthalic bị phân hủy, bị
11
hydrat hóa tạo ra anhydit, rồi nó kết hợp với nước tạo ra các chất có nhiệt độ sôi
thấp hơn như anhydit maleic và axit benzoic. Chúng bay hơi một phần và được
loại bỏ nhờ áp lực dưới áp suất chân không chúng sẽ được phun ra cùng dòng
thải. Dòng thải này tiếp tục đưa đến lò đốt và được đốt tại đây.
Bể xử lí sơ bộ có một hệ thống lation, hệ thống này gồm hai cột đó là cột
tước( dùng để phâ tách) và một cột nữa đó là cột tinh chế. Cả hai cột đều hoạt
động dưới áp suất tuyệt đối khoảng từ 2,67 Kpa đến 26,7 Kpa.
Dòng đi qua một precooler rồi tiếp tục đi vào cột tước để phân tách ở nhiệt độ
khoảng 186oC. Khi đó anhydrit maleic và axit bezoic được tách ra rồi được
chuyển tới lò đốt để đốt hoặc một thiết bị xử lí khác để xử lý. Dòng cuối cùng
nằm trong cột phân tách sẽ được đưa đến thiết bị bay hơi. Một phần của dòng
được xử lí tiếp trong cột phân tách, phân còn lại được đưa đến cột tinh chế.
Trong cột tinh chế, phần cặn nằm ở đáy cột sẽ được đưa đến lò đốt và đốt. phần
trên cùng của cột tinh chế là anhydrit phthalic có độ tinh khiết lên đến 99.9%
được lấy ra khỏi cột tinh chế và được bảo quản ở điều kiện chân không và ở
nhiệt độ 149 oC.
3.1.6 Lò đốt.
Trong quá trình sản xuất anhydrite phthalic sản sinh ra một số chất không cần
thiết hay nói cách khác là chất thải. Thông thường những chất này người ta đem
đốt trong các lò đốt. Cách này được sử dụng không những trong quá trình sản
xuất anhydrite phthalic từ o-xylen mà trong quá trình sản xuất anhydrite phthalic
từ naphthalene mà chúng ta sẽ đề cập sau.
Thông thường người ta sử dụng hệ thống đốt kép, trong hệ thống đốt kép thì có
hai lò đốt bằng nhiệt. Một lò dùng để đốt các chất thải từ quá trình chuyển đổi ở
các thiết bị ngưng tụ. lò còn lại dùng để đốt các chất thải sinh ra từ các quá trình
khác trong nhà máy như là quá trình phân tách, quá trình tách, tinh chế…
12
Nhiệt độ trong các lò đốt khoảng từ 700 oC đến 760 oC. các khí thoát ra khỏi lò
đốt có nhiệt độ khoảng 250 oC và các khí này được kiểm soát 99,9% riêng khí
cacbon monooxit là 96,5%.
3.1.7 Bình chứa.
Sau khi được sản phẩm ta đem bảo quản sản phẩm bằng cách cho chúng vào các
thùng chứa, ngoài ra bình chứa cũng nơi đựng nguyên liệu trước khi đem vào
sản xuất.
Ở bể chứa các lỗ thông hơi các bịt kín để giảm thiệt hại , hao hụt nguyên liệu và
sản phẩm do sự bay hơi. O-xylen được bảo quản ở nhiệt độ môi trường và áp
suất hơi từ 0,13 Kpa đến 1,47 Kpa. Trong bình chứa nguyên liệu được bảo phủ
bằng một lớp nitơ đê tránh tạo thành một hôn hợp nổ trong không gian hơi trên
chất lỏng xylen.
Trong bể chứa anhydrit phthalic và anhydrit phthalic sau khi đã được tinh chế
được duy trì nhiệt độ từ 149 oC đên 160 oC, tại nhiệt độ này nó có áp suất hơi từ
2,27 Kpa đến 3,33 Kpa. Trong bể chứa này cũng được bao phủ bởi một lớp nitơ
khô để tránh sự xâm nhập của nước và oxy từ bên ngoài vào. Nếu oxy và nước
xâm nhập vào thì rất nguy hiểm, nó gây ra hỏa hoạn nguyên nhân là do quá trình
thủy phân anhydrit phthalic thành axit phthalic. Lỗ thông hơi không được sử
dụng trên các bể chứa anhydirt phthalic vì hơi anhydit phthalic dễ bị đông đặc
hay là ngưng tụ lại. vì vậy người ta kiểm soát bể chứa anhydrit phthalic bằng
cách thông gió.
3. 1.8 Hệ thống truyền nhiệt.
Theo công nghệ của hãng BASF thì họ sử dụng 3 hệ thống chất lỏng truyền
nhiệt:
Một là hệ thống chất lỏng( cụ thể là các muối nóng chảy) dẫn nhiệt từ các lò
phản ứng.
13
Hai là hệ thống chất lỏng hữu cơ( có thể là diphenyl, di phenyl oxit eutectic)
được sử dụng làm nóng hoặc làm lạnh trong các thiết bị chuyển đổi ngưng tụ.
Ba là hệ thống chất lỏng hữu cơ cung cấp nhiệt cho quá trình làm sạch sản
phẩm.
Các hệ thống truyền nhiệt trong nhà máy sản xuất anhydrit phthalic không có
sẵn. Tuy nhiên, do tính năng cần thiết của hệ thống truyền nhiệt bằng chất lỏng
người ta phải thiết kế xây dựng trong các nhà máy.
Tại lò đốt, xảy ra quá trình đốt cháy nhiên liệu tỏa ra một lương nhiệt lớn, khi đó
chất tải nhiệt( cụ thể là các chất hữu cơ) được bơm đi qua vỏ của lò đốt. Tại đây,
nhiệt được truyền cho chất tải nhiệt và chất tải nhiệt được truyền đi cung cấp
nhiệt cho các quá trình thiết bị trong nhà máy
3.1.9 Dòng nước thải
Trong nhà máy sản xuất anhydrit phthalic dòng nước thải được sản sinh ra từ
đáy của nồi hơi. Một nguồn nước thải khác cũng được sản sinh ra trong hệ thống
làm sạch sản phẩm. Các dòng nước thải này phải được dẫn đến các khu xử lí
nước thải riêng biệt.
3.1.10 Chất xúc tác
Nhiều biến thể vadini oxit đều có thể sử dụng làm xúc tác cho quá trình. Ví dụ
trong một quá trình có thể sử dụng kết hợp nhiều chất xúc tác gồm 3,75%( về
khối lượng) vadini oxit ,21,25% khối lượng kali pyrosunfat và 75% khối lượng
titan dioxit. Để kích thích chất xúc tác hoạt động thì khoảng 65% vadini được
chuyển sang trạng thái tetravalent bằng cách nung vadini trong môi trường có
khí SO2. Theo các điều kiện phản ứng thì các hỗn hợp vadini oxit và kali
pyrosunfat tan chảy trong các lỗ rỗng do titan dioxit vận chuyển, trong đó mỗi
hạt có kích thước từ 0,2mm đến 0,5mm.
14
Trong một nghiên cứu về chất xúc tác vadini oxyt trong phản ứng oxy hóa,
người ta kết luận rằng quá trình oxy hóa diễn ra trên bề mặt của chất xúc tác
thông qua quá trình ion phản ứng. Thông qua kết luận này một cơ chế phản ứng
được chỉ ra ở hình 2. Người ta thừa nhận rằng bề mặt của chất xúc tác bao gồm
các ion oxy và các ion vanadi pentavalent. Ở Bước 1, một phân tử o-xylene
được hấp thụ trên bề mặt chất xúc tác. Trong Bước 2, một ion hydro được lấy ra
từ các hydrocarbon bởi một bề mặt ion oxy, và một electron từ các hydrocacbon
được chuyển giao cho một ion vanadi. Trong Bước 3, liên kết hóa trị được hình
thành giữa các nguyên tử cacbon có sẵn và các nhóm hydroxit và một electron
được chuyển từ các phân tử hữu cơ tới một ion vanadi. Trong bước thứ tư, các
phân tử hữu cơ (o-methyl benzyl rượu) được giải hấp từ bề mặt để lại một chỗ
trống trên bề mặt. Sau đó, một nguyên tử oxy từ một phân tử oxy trong pha khí
sẽ điền vào các chỗ trống và bị giảm đến hóa trị âm 2 trong khi V+4 ion sẽ bị
oxy hóa thành V+5.. Ngoài ra, phản ứng sẽ tiến hành thông qua các ion oxy hấp
thụ trên bề mặt chất xúc tác chứ không phải là kết hợp trong mạng. Trong cả hai
trường hợp, electron phải được chuyển từ các nơi nhường electron trong các
chất xúc tác để các nguyên tử oxy tạo thành các ion oxy. Các hoạt động của chất
xúc tác vadino oxit cũng do thực tế một phần nó là chất bán dẫn tạo điều kiện
cho electron trong quá trình chuyển giao.
Cơ chế của quá trình oxy hóa của lưu huỳnh dioxit trên một chất xúc tác vanadi
oxit gồm ba giai đoạn đã được đề xuất bởi Glueck và Kenney:
Giai đoạn 1:
V2O5.SO3
Giai đoạn 2:
(VOSO4)2
Giai đoạn 3:
V2O4.SO3
+
SO2
---->
---->
(VOSO4)2
V2O4.SO3
+ ½O2 ---->
+
SO3
V2O5.SO3
Trong các phương trình phản ứng trên, V2O5.SO3 đại diện cho vanadi pentôxít
trong sự tan chảy đã kết hợp với lưu huỳnh trioxit hình thành từ các phân hủy
của các anion pyrosulfate. Kết quả của hai bước đầu tiên là giảm vanadi từ
15
pentavalent tình xuống tetravalent. Điều này đã giải thích cho chúng ta về vai trò
của các sulfur dioxide trong việc duy trì V+4/V+5 cân bằng của chất xúc tác.
3.1.11 Lò phản ứng hệ thống cân bằng nhiệt.
Quá trình oxy hóa o-xylene là một quá trình phản ứng hóa học tỏa nhiệt. Tiêu
chuẩn nhiệt của phản ứng cho chính các phản ứng chính và các phản ứng phụ
chính được tính toán trên cơ sở tất cả các hợp chất có liên quan đều ở trong
trạng thái hơi. Nhiệt được thải ra trong một lò phản ứng được ước tính là 17,1
MJ / KGA alhydrit phthalic hình thành.
Nhiệt độ của phản ứng được sử dụng để tạo ra hơi trong lò hơi thông qua bộ trao
đổi nhiệt. nhiệt được truyền cho chất tải nhiệt sau đó chất tải nhiệt mang nhiệt đi
cung cấp cho lò hơi. Đó chỉ là một phần nhiệt cung cấp tạo ra hơi nước đáp ứng
cho quá trình sản xuất. Phần nhiệt còn lại có thể sử dụng sản xuất ra điện.
3. 2 Qúa trình sản xuất anhydirt phthalic bằng phương pháp oxy hóa
naphthalene.
16
Hình 2. Sơ đồ công nghệ sản xuất anhydrit phthalic từ naphthalen
3.2.1 Các phản ứng hóa học xảy ra trong quá trình.
Phản ứng hóa học chính xảy ra như sau:
C10H8
+
9/2O2
C6H4(CO)2O +
2CO2 +
2H2O
Các phản ứng phụ xảy ra như sau:
C10H8
+
6O2
C10H8
+
3/2O2
2C2H2(CO)2O + 2CO2 + 2H2O
C10H6O2
+ H2O
3.2.2 Nguồn cung cấp nguyên liệu.
Nguyên liệu cho quá trình sản xuất anhydrit phthalic bằng phương pháp này
gồm có naphthalen và không khí. Hai nguồn cung cấp napthalen chủ yếu cho
quá trình sản xuất là từ mỏ dầu và desulfua nhựa than đá.
Chất xúc tác ngày nay có khả năng xử lý nguyên liệu naphthalene có hàm lượng
lưu huỳnh cao nhất là 1%. Tuy nhiên, lưu huỳnh trong naphthalene nhựa than đá
là chủ yếu ở dạng thionaphthene, được chuyển thành maleic anhydrit và oxit lưu
huỳnh thay vì anhydride. Các kết quả năng suất của alhydrit phthalic giảm (1%
lưu huỳnh là tương đương với 4,2% thionaphthene) rõ ràng là lý do chính cho
việc sử dụng naphthalene desulfurized.
Các sản phẩm phản ứng của tetralin (1,2,3, 4-tetrahydro-naphthalene) có mặt
trong naphthalene nhựa than đá không được biết đến. Tuy nhiên, Các sản phẩm
rất có thể là anhydride maleic, oxit cacbon và nước. Trong quá trình này, không
khí được lọc rồi nén và đun nóng đến 149 ° C. Không khí nóng sau đó đi vào
đáy lò phản ứng và đi qua một đĩa phân phối không khí trước khi vào chất xúc
tác lớp tầng sôi. Chất lỏng naphthalene , được lưu trữ ở 90 ° C đến 102 ° C,
được bơm từ bể chứa và phun trực tiếp vào ở tầng sôi trên đĩa phân phố không
17
khí . Các naphthalene này ngay lập tức bị bốc hơi và phân tán khắp các lớp khi
nhiệt độ cao dưới sự có mặt của lớp chất xúc tác nó phản ứng ngay với không
khí.
3.2.3 Lò phản ứng
Trong lò phản ứng, tỷ lệ giữa không khí và nguyên liệu naphthalen ( theo
khối lượng) là 10:1 đến 12:1. Tỷ lệ không khí với naphthalene thấp có thể được
thực hiện bởi tác động trơ của các hạt chất xúc tác tốt trong các lò phản ứng ở
tầng sôi. Trong lớp chất lỏng, nhiệt độ được duy trì đồng đều (mức ± 5 ° C)
trong khoảng từ 340 ° C đến 380 ° C. Áp lực lò phản ứng được thiết lập bởi áp
lực tác động ngược trở lại của thiết bị hạ lưu.
Lớp chất xúc tác được chứa trên các tấm, dưới các tấm có các lỗ nhỏ để có thể
thổi không khí vào tầng sôi của lò phản ứng qua các lỗ đó. Nguyên liệu
napthalen được đưa vào lớp chất lỏng nhờ các vòi phun. Trên lớp chất lỏng cần
có khoảng không gian phù hợp, vừa đủ để các chất xúc tác giải quyết các chất
khí trước khi nó đi ra khỏi lò phản ứng. tỷ lệ giữa chiều cao lớp chất lỏng trong
lò phản ứng với đường kính của nó là 3:1. Thời gian cho một quá trình phản ứng
là từ 10 giây đến 20 giây.
Các phản ứng trong lò phản ứng đều là những phản ứng tỏa nhiệt nên nhiệt độ
của thiết bị tăng rất cao. Chính vì vậy, để bảo vệ các thiết bị của lò phản ứng ta
cần có một chế độ làm mát. Thông thường người ta dùng chất tải nhiệt là nước
cho đi bên ngoài lò phản ứng( vỏ thiết bị).
Hiệu suất chuyển đổi trong lò phản ứng là 100%, với mỗi kilogram nguyên liệu
naphthalen sẽ cho ta 0,97 kilogram anhydrit phthalic
3.2.4 Bộ lọc chất xúc tác
Khí thải đi ra khỏi lò phản ứng rồi được làm lạnh tới -260oC trước khi nó vào
bộ lọc chất xúc tác để tránh các phản ứng phụ xảy ra trên các bộ lọc. Các hạt xúc
tác được cuốn, tách ra khỏi dòng khí nhờ thiết kế đặc biệt của lớp lọc có thành
18
phần chủ yếu là gốm. khí này định kì được thổi vào các bộ lọc, các hạt chất xúc
tác sau khi được tách ra sẽ được trả lại vào trong lò phản ứng. trong một số quy
trình thì bộ lọc bằng sợi thủy tinh cũng được sử dụng.
3.2.5 Thiết bị ngưng tụ
Do tỷ lệ không khí với naphthalen trong tầng sôi của lò phản ứng thấp, sản phẩm
là anhydrit phthalic thô thu được tồn tại ở cả hai dạng là rắn và lỏng. Với 40%
anhydirt phthalic thu được ở dạng lỏng trong các bình ngưng tụ, 60% anhydrit
phthalic cfon lại ở dạng rắn được trong các bình ngưng chuyển đổi.Dòng khí
cuối rời khỏi thiết bị chuyển đổi ngưng tụ ở khoảng 66 oC sau đó nó được
chuyển đến thiết bị làm sạch bằng nước hoặc đưa đến lò đốt để loại bỏ. Người ta
sử dụng không khí làm mát thiết bị ngưng tụ bằng cách thổi dòng không khí với
tốc độ thấp trực tiếp vào thiết bị, nó khác cách làm mát lò phản ứng bằng nước.
Sản phẩm thô được lưu trữ dưới dạng chất lỏng ở 149 ° C và áp suất khí quyển.
3.2.6 Qúa trình làm sạch sản phẩm
Anhydrit phthalic thô được lưu trữ ở bể chứa sản phẩm thô sẽ được lấy ra và cho
đi qua tháp trao đổi nhiệt và sau đó sẽ cho đi qua tiếp bể tiền xử lý. Để bổ sung
và để thúc đẩy quá trình tiền xử lý người ta sử dụng thêm một số hóa chất khác.
Hóa chất xử lý bao gồm các anhydride maleic và natri hydroxit. Trong quá trình
Badger-Sherwin-Williams sản phẩm anhydrit phthalic cuối cùng thu được ở các
cột chưng cất hoạt động ở áp suất tuyệt đối là 2.66 kPa. Sản phẩm cuối được đưa
đến các lò đốt để loại bỏ.
Các anhydrit phthalic tinh chế (99,7% tối thiểu) có thể được bơm vào xe bồn để
vận chuyển ở dạng lỏng, hoặc nó có thể được đóng thành bao nếu nó ở dạng rắn
3.2.7. Thiết bị làm sạch
Các đặc tính của khí thải từ thiết bị chuyển đổi ngưng tụ đã gây ra một số khó
khăn trên thiết kế của một thiết bị làm sạch cho các nhà máy sản xuất alhydrit
phthalic như:
19