Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.91 MB, 602 trang )
Menu Ảnh
Một dock với một menu ảnh được chọn
Một vài dock có chứa một menu ảnh: là một menu liệt kê tất cả các ảnh mở trong GIMP, và hiển
thị tên của ảnh có thông tin hiện trong dock. Bạn có thể sử dụng menu ảnh để chọn một ảnh
khác. Nếu bấm nút Auto thì menu này luôn hiển thị tên của ảnh đang được kích hoạt trong
GIMP, tức là ảnh mà bạn đang làm việc.
Theo mặc định, dock "Layers, Channels, and Paths" hiển thị một menu ảnh trên cùng, trong khi
các dock khác thì không. Tuy nhiên, bạn luôn luôn có thể thêm hoặc loại bỏ một menu ảnh, bằng
cách bật tắt "Show Image Menu" trong menu Thẻ, như được mô tả dưới đây. (Ngoại lệ: bạn
không thể thêm một menu ảnh vào dock có chứa Hộp Công cụ.)
54
Menu Thẻ
Một hộp thoại trong một dock, với menu Thẻ được tô màu trắng
Trong mỗi hộp thoại, bạn có thể vào một menu đặc biệt gồm các lệnh liên quan đến thẻ bằng
cách nhắp chuột vào nút Tab Menu, như thể hiện trên hình minh họa. Chính xác lệnh nào hiển thị
trên menu khác nhau tuỳ theo hộp thoại, tuy nhiên chúng luôn có các lệnh về tạo thẻ mới, đóng
hoặc tách các thẻ.
Menu Thẻ từ hộp thoại Layers
Một menu Thẻ cho phép bạn truy cập vào các lệnh sau:
Context Menu (menu ngữ cảnh)
55
Trên cùng mỗi menu Tab có một mục mở ra menu ngữ cảnh của hộp thoại, trong đó chứa
các lệnh đặc trưng cho kiểu hộp thoại đó. Ví dụ, menu ngữ cảnh của hộp thoại Patterns
chứa một tập hợp các lệnh xử lý kiểu.
Add Tab (Thêm thẻ)
Mục này mở ra một menu con cho phép bạn thêm nhiều loại hộp thoại gắn được vào
thành các thẻ.
Close Tab (Đóng thẻ)
Mục này đóng hộp thoại. Đóng hộp thoại cuối cùng trong một dock sẽ làm cho dock đó
cũng đóng lại luôn. Chọn mục này có tác dụng tương tự như nhắp chuột vào nút "Close
Tab".
Detach Tab (Tách thẻ)
Mục này tách hộp thoại ra khỏi dock, tạo ra một dock mới với dock mới chỉ có một hộp
thoại vừa mới tách ra đó. Nó có tác dụng tương tự như kéo tab ra khỏi dock và thả chuột
ở một vị trí bất kỳ.
Kích thước khi xem trước
Menu con kích thước xem trước của một menu Thẻ
Nhiều, nhưng không phải tất cả, hộp thoại có các menu thẻ chứa tùy chọn Preview Size
(kích thước xem trước), mở ra một menu con cung cấp một danh sách về kích thước các
mục trong hộp thoại. Ví dụ, hộp thoại Brushes hiển thị hình của tất cả các loại cọ vẽ: tuỳ
chọn Preview Size quyết định kích thước của tất cả các hình này. Giá trị mặc định là
Medium (trung bình).
Loại Thẻ
Menu con Loại Thẻ của một menu Thẻ
56
Mục này xuất hiện khi nhiều hộp thoại nằm trong cùng một dock: nó mở ra một menu
con cho phép bạn chọn các thẻ xuất hiện như thế nào. Có năm tuỳ chọn, không phải tất cả
các tuỳ chọn đều áp dụng được cho tất cả các loại hộp thoại:
Icon (Biểu tượng)
Tùy chọn này dùng một biểu tượng để thể hiện loại hộp thoại.
Current Status (Trạng thái hiện tại)
Tùy chọn này chỉ xuất hiện ở các hộp thoại cho phép bạn chọn một thứ gì đó, ví dụ như
một cọ vẽ, một kiểu, một gradient,v.v. Nó cung cấp cho bạn một thẻ thể hiện mục đang
được chọn.
Text (chữ)
Tuỳ chọn này cung cấp cho bạn một thẻ hiển thị loại hộp thoại ở dạng chữ.
Icon and Text (Biểu tượng và chữ)
Tùy chọn này cung cấp cho bạn các thẻ lớn hơn, chứa cả biểu tượng lẫn loại hộp thoại
bằng chữ.
Status and Text (Trạng thái và chữ)
Tùy chọn này, khi có thể, sẽ hiển thị các mục hiện đang được chọn, cũng như loại hộp
thoại.
View as List; View as Grid (xem dưới dạng danh sách; xem dưới dạng lưới)
Các mục này được hiển thị trong các hộp thoại để cho phép bạn chọn một mục từ một tập hợp:
brushes (các cọ vẽ), patterns (các kiểu), fonts (các kiểu chữ),.v.v. Bạn có thể chọn hoặc là xem
các mục qua một danh sách theo chiều đứng, với tên của mỗi mục nằm bên cạnh, hoặc qua dạng
lưới, với các biểu tượng nhưng không có tên. Mỗi chế độ hiển đều có ưu điểm riêng của chúng:
Xem ở dạng danh sách cung cấp cho bạn nhiều thông tin hơn, nhưng xem ở dạng lại cho phép bạn
xem nhiều khả năng hơn. Chế độ mặc định thay đổi theo từng hộp thoại: đối với hộp thoại cọ vẽ
(brushes) và kiểu (pattern), mặc định là lưới; đối với hầu hết các hộp thoại khác, mặc định là danh
sách.
Show Image Menu (hiển thị menu ảnh)
Đây là tùy chọn kiểu bật/tắt (toggle). Nếu được đánh dấu thì một menu ảnh hiện ra ở trên
đầu dock. Nó không dùng được đối với các hộp thoại được gắn phía dưới Hộp công cụ.
Đừng nhầm lẫn nó với menu ảnh, là menu của ảnh đang được kích hoạt trên màn hình
của bạn.
57
Auto Follow Active Image (tự động theo ảnh đang được kích hoạt)
Đây là tùy chọn kiểu bật/tắt, và nó không có ý nghĩa gì cả trừ khi menu ảnh được hiển thị.
Nó khiến cho menu ảnh, và tiếp theo là nội dung của hộp thoại nếu chúng liên quan đến
ảnh, thay đổi tương ứng với ảnh nào mà bạn đang làm việc vào thời điểm đó.
3.5. Các Khái niệm căn bản về GIMP
Phần này dự kiến trình bày cho bạn một giới thiệu vắn tắt về các khái niệm căn bản và các thuật
ngữ mà bạn cần biết để có thể hiểu được phần còn lại của tài liệu này. Mọi nội dung trong phần
này được giải thích chi tiết hơn nhiều trong các phần khác của tài liệu. Trừ một vài ngoại lệ,
chúng tôi cố gắng tránh "gây nhiễu" trong phần này bằng cách hạn chế các liên kết và tham chiếu
chéo: mọi nội dung được đề cập trong phần này đều ở mức tổng quát để bạn có thể dễ dàng tìm
thấy chúng trong chỉ mục.
Tổng quát
GIMP là một chương trình xử lý hình ảnh. Nói một cách vắn tắt nhất, sử dụng GIMP bao
gồm ba bước cơ bản: (1) mở ảnh hoặc tạo ảnh mới; (2) thay đổi, điều chỉnh các ảnh đó;
(3) lưu lại kết quả.
Mở ảnh
Tuỳ thuộc vào việc GIMP được khởi động như thế nào, có thể có một hay nhiều ảnh đã
được mở ra khi bạn bắt đầu. Bạn có thể mở các ảnh mới từ các tập tin bằng cách dùng
lệnh Open từ menu File. GIMP có khả năng mở các ảnh với nhiều định dạng đồ hoạ khác
nhau; xem Files để có thêm thông tin. Tuỳ vào hệ thống của bạn được thiết lập như thế
nào, bạn cũng có thể mở các ảnh ra bằng cách nhắp chuột vào các biểu tượng trong một
chương trình quản lý tập tin, hoặc bằng cách kéo và thả từ những chương trình khác. Nếu
bạn không chắc rằng mình có thể làm được hay không thì cứ thử làm xem sao. Điều tồi tệ
nhất có thể xảy ra là máy tính của bạn có thể nổ tung!
Thay đổi ảnh
GIMP cung cấp cho bạn rất nhiều cách tác động lên ảnh: các công cụ sơn (painting tools),
các công cụ xử lý màu sắc (color manipulation tools), các công cụ chuyển đổi
(transformation tools), các bộ lọc (filters),v.v. Phần chính yếu của tài liệu này dành cho
việc mô tả các công cụ này và cách làm việc với chúng như thế nào.
Lưu ảnh
Khi bạn kết thúc làm việc với một ảnh, bạn sẽ muốn lưu kết quả lại. (Trong thực tế, tốt
nhất là nên định kỳ lưu ảnh: GIMP là một chương trình khá "trâu bò" (robust), tuy nhiên
chúng tôi đã nghe những lời đồn đại, và có lẽ là không đúng sự thật, có một vài trường
58
hợp hiếm hoi và khó hiểu mà GIMP bị "sập"). Hầu hết các định dạng tập tin mà GIMP
mở được thì nó cũng có thể ghi được. Tuy nhiên có một định dạng đặc biệt: XCF là định
dạng nguyên thuỷ của GIMP, đặc biệt phù hợp cho việc lưu các kết quả trung gian, và để
lưu các ảnh sau này được mở lại trong GIMP. Hầu hết các chương trình mở ảnh khác
không đọc được các tập tin XCF, do vậy sau khi hoàn tất xử lý ảnh, bạn nên lưu ảnh
thành một định dạng khác được sử dụng rộng rãi hơn như JPEG, PNG, TIFF,v.v.
Các ảnh
Các ảnh là những thực thể căn bản mà GIMP sẽ làm việc với. Nói một cách nôm na, một
"ảnh" tương ứng với một tập tin duy nhất, ví dụ như một tập tin TIFF hay JPEG. Bạn
cũng có thể nghĩ rằng một ảnh tương ứng với một cửa sổ hiển thị, tuy nhiên điều này
không hoàn toàn đúng. Bạn cũng có thể mở nhiều cửa sổ hiển thị cùng một ảnh. Tuy
nhiên, một cửa sổ không thể hiển thị nhiều hơn một ảnh, hoặc mở một ảnh mà không có
cửa sổ hiển thị cho nó.
Một ảnh GIMP có thể là một thứ khá phức tạp. Thay vì nghĩ về một thứ tương tự như một
tờ giấy với hình vẽ trên đó, bạn nên nghĩ rằng nó giống với một quyển sách thì đúng hơn,
với các trang sách là các "lớp". Ngoài một chồng lớp như vậy, một ảnh GIMP có thể chứa
mặt nạ chọn (selection mask), một tập hợp các kênh (set of channels) và một tập hợp các
đường dẫn (set of paths). Thực ra, GIMP cung cấp cho ta một cơ chế gắn những mẩu dữ
liệu bất kỳ vào một ảnh, những thứ được gọi là "ký sinh".
Trong GIMP, ta có thể mở nhiều ảnh cùng một lúc. Nếu các ảnh có kích thước lớn, một
ảnh có thể chiếm nhiều MB bộ nhớ, nhưng GIMP sử dụng một hệ thống quản lý bộ nhớ
xếp kề phức tạp cho phép nó mở những ảnh rất lớn một cách "ngon lành". Tuy nhiên, nó
có những giới hạn và thường thì tốt nhất là nên làm việc với các ảnh sao cho để dành bộ
nhớ nhiều nhất cho hệ thống càng tốt.
Các Lớp
Nếu một ảnh được ví như một cuốn sách thì một lớp được ví như một trang sách trong
cuốn sách đó. Các ảnh đơn giản nhất chỉ chứa một lớp và có thể được xử lý như những tờ
giấy, tuy nhiên những người dùng GIMP trình độ cao thường xử lý các ảnh có nhiều lớp,
thậm chí hàng chục lớp. Các lớp không nhất thiết phải trong suốt, và chúng cũng không
nhất thiết phải bao trùm toàn bộ một ảnh, do vậy khi bạn nhìn một ảnh hiển thị lên, bạn
có thể nhìn thấy không phải chỉ một lớp trên cùng, bạn có thể nhìn thấy các thành phần
của nhiều lớp.
Các Kênh
TO BE WRITTEN
Các phép chọn
59
Thông thường khi bạn làm một điều gì đó với một ảnh, bạn chỉ muốn lệnh tác động lên
một phần của ảnh. Cơ chế "chọn" khiến cho điều này có thể thực hiện được. Mỗi một ảnh
có phép chọn riêng của nó, là điều mà bạn thường thấy là những đường chấm chấm di
chuyển (được gọi là "đường kiến chạy" - marching ants), tách biệt phần được chọn ra
khỏi phần không được chọn.Thực ra điều này hơi bị sai một chút: phép chọn trong GIMP
thực sự có phân cấp (graded), chứ không phải là "chọn hết hoặc không chọn gì cả", và
thực ra phép chọn được biểu thị bằng một kênh thang độ xám hoàn chỉnh (full-fledged
grayscale channel). Các đường chấm chấm mà bạn thấy bình thường đó chỉ đơn giản là
một đường viền (contour line) ở mức độ chọn 50%. Tuy nhiên, vào bất kỳ thời điểm nào,
bạn cũng có thể nhìn thấy kênh chọn (selection channel) với đầy đủ chi tiết hoàn chỉnh
nhất của nó (glorious detail) bằng cách bật nút QuickMask lên.
Một phần quan trọng của việc học sử dụng GIMP có hiệu quả là nắm được nghệ thuật
thực hiện được phép chọn đúng---các phép chọn được đúng chính xác thứ gì bạn cần. Bởi
vì việc quản lý phép chọn có tầm quan trọng cốt lõi (centrally important), GIMP cung cấp
cho bạn rất nhiều công cụ để thực hiện điều đó: một tập hợp các công cụ để thực hiện
phép chọn, một menu các lệnh chọn và khả năng bật sang chế độ Mặt nạ nhanh
(QuickMask), mà ở chế độ này bạn có thể xử lý các kênh chọn như thể chúng là một kênh
màu sắc, thông qua đó là việc "sơn phép chọn" (painting the selection).
Quay ngược lệnh
Khi bạn thực hiện một thao tác sai, bạn có thể quay ngược lại. Gần như tất cả mọi thứ bạn
làm với ảnh đều có thể quay ngược lại. Thực ra, thông thường thì bạn có thể quay ngược
lại một số lần đáng kể những lệnh bạn đã làm gần nhất, nếu bạn quyết định rằng các lệnh
đó đã đi sai hướng. GIMP khiến cho điều này có thể thực hiện được bằng cách lưu lại lịch
sử các lệnh của bạn. "Lịch sử" này tiêu tốn bộ nhớ do vậy khả năng quay ngược lại không
phải là vô tận. Một số lệnh tiêu hao rất ít bộ nhớ để quay ngược lại, do vậy bạn có thể
thực hiện vài chục lần trước khi lệnh cũ nhất bị xoá đi khỏi "lịch sử", một số tác vụ khác
đòi một lượng bộ nhớ quay ngược lại lớn khủng khiếp. Bạn có thể cấu hình lượng bộ nhớ
của GIMP cho phép quay ngược "lịch sử" của từng ảnh, tuy nhiên trong bất kỳ tình
huống nào, bạn luôn luôn có khả năng quay ngược lại tối thiểu là 2-3 lần lệnh mới nhất
của bạn. (Tác vụ quan trọng nhất không thể quay ngược lại được là đóng một ảnh. Vì lý
do này, GIMP sẽ hỏi bạn để khẳng định lại bạn có thực sự muốn đóng ảnh lại hay không
nếu bạn đã thực hiện thay đổi trên ảnh).
Các Plug-in
Nhiều, và có lẽ là hầu hết, những thứ bạn thực hiện trên một ảnh được thực hiện bằng bản
thân ứng dụng GIMP. Tuy nhiên, GIMP cũng tận dụng tối đa việc sử dụng các "plug-in",
tức là các chương trình ngoài tương tác thật chặt chẽ với GIMP, có khả năng xử lý các
ảnh và các đối tượng GIMP khác theo một cách rất phức tạp. Nhiều plug-in quan trọng
được "đóng gói" cùng với ứng dụng GIMP, nhưng cũng có nhiều plug-in khác có thể
dùng được theo cách khác. Thực ra, khả năng viết các plug-in (và các mã lệnh) là cách dễ
dàng nhất cho những người không nằm trong nhóm phát triển GIMP có thể thêm các khả
năng mới cho GIMP.
60
Tất cả các lệnh nằm trong menu Filters, và một số lượng đáng kể các lệnh nằm trong các
menu khác, thực ra được thực thi bởi các plug-in.
Các tập lệnh
Để bổ sung cho các plug-in, tức là các chương trình được viết bằng ngôn ngữ C, GIMP cũng có
thể tận dụng các tập lệnh. Số lượng lớn nhất các tập lệnh được viết bằng một ngôn ngữ gọi là
Script-Fu, là một ngôn ngữ đặc biệt của GIMP (đối với những người quan tâm đến vấn đề này thì
đó là một hình thức ngôn ngữ (dialect) kiểu Lisp được gọi là Scheme). Ta cũng có thể viết các tập
lệnh của GIMP bằng Python hay Perl. những ngôn ngữ này linh hoạt hơn và mạnh hơn Script-Fu,
tuy nhiên điều bất tiện của chúng là chúng phụ thuộc vào phần mềm không được tự động "đóng
gói" cùng với ứng dụng GIMP, và không thể đảm bảo chắc chắn rằng chúng sẽ làm việc hoàn hảo
với mỗi lần cài đặt GIMP.
4. Làm việc với các Ảnh
4.1. Các loại Ảnh
Ta cũng có thể cố gắng suy nghĩ đến các ảnh như là một thứ gì đó tương ứng một cửa sổ hiển thị
duy nhất, hoặc như một tập tin duy nhất ví dụ như một tập tin JPEG, nhưng thực ra một ảnh
GIMP là một cấu trúc phức tạp hơn, chứa một "chồng" (stack) các lớp cùng với các kiểu đối
tượng khác: một mặt nạ chọn (selection mask), một tập hợp các kênh, một tập hợp các đường
dẫn, một lịch sử quay ngược lại ("undo" history), v.v. Trong phần này chúng ta sẽ có một xem
xét một cách chi tiết hơn tất cả các thành phần của một ảnh, và những thứ bạn có thể làm với
chúng.
Tính chất cơ bản nhất của ảnh là chế độ (mode). Có ba chế độ có thể: GRB, grayscale (thang độ
xám) và indexed (chỉ mục). RGB là viết tắt của các chữ Red-Green-Blue (Đỏ-Lục-Lam), và cho
biết mỗi điểm trong một ảnh được biểu thị bằng một cấp độ "đỏ", một cấp độ "lục" và một cấp
độ "lam". Bởi vì mỗi một màu mà mắt người có thể phân biệt được có thể được biểu thị bằng
một tập hợp các màu đỏ, lục và lam. Các ảnh RGB là các ảnh có màu sắc hoàn chỉnh (full-color).
Mỗi kênh màu sắc có 256 cấp cường độ. Giải thích chi tiết hơn được trình bày trong phần Các
Mô hình Màu
Trong một ảnh thang độ xám, mỗi điểm được biểu thị bằng một giá trị độ sáng (brightness
value), thay đổi từ 0 (màu đen) đến 255 (màu trắng), với các giá trị trung gian biểu thị các mức
độ xám khác nhau.
Sự khác biệt thiết yếu giữa một ảnh thang độ xám và một ảnh RGB là số lượng các "kênh màu"
(color channel): một ảnh thang độ xám chỉ có một kênh; một ảnh RGB có 3 kênh. Một ảnh RGB
có thể được coi như là ba ảnh thang độ xám chồng lên nhau: một ảnh được tô màu đỏ, một ảnh
được tô màu lục và một ảnh được tô màu lam.
61
Thực ra, cả ảnh thang độ xám lẩn ảnh RGB có một kênh màu bổ sung, được gọi là kênh alpha,
biểu thị độ đục (opacity). Khi giá trị alpha tại một vị trí nào đó ở một lớp nào đó là zero, thì lớp
đó trở thành hoàn toàn trong suốt, và màu tại vị trí đó được được quyết định bởi màu gì nằm bên
dưới đó. Khi alpha có giá trị tối đa, lớp đó "đục", và màu sắc được quy định bởi màu của lớp đó.
Các giá trị alpha trung gian tương ứng với mức độ trong suốt (transluency) khác nhau: màu sắc
tại một vị trí là sự pha trộn tỷ lệ (proportional mixture) của màu từ lớp đó và màu bên dưới.
Trong GIMP, mỗi kênh màu sắc, kể cả kênh alpha, có một khoảng giới hạn giá trị từ 0 đến 255;
và gọi theo thuật ngữ máy tính, một chiều sâu 8 bits. Một số máy ảnh số có thể tạo ra các tập tin
ảnh với chiều sâu 16 bits trên mỗi kênh màu. GIMP không thể mở các ảnh như vậy mà không
làm mất đi độ phân giải của chúng. Đối với hầu hết các trường hợp, "hậu quả" quá yếu (subtle)
và mắt người thường không thể phát hiện ra, nhưng trong một số trường hợp, chủ yếu là ở những
vùng lớn trên ảnh có sự thay đổi cường độ màu (color gradient) một cách từ từ, sự khác biệt có
thể nhận thấy được.
Kiểu ảnh thứ ba, kiểu ảnh indexed, hơi phức tạp một chút để hiểu nó. Trong một ảnh indexed, chỉ
có một số lượng giới hạn nhất định các màu tách biệt được sử dụng, thường là 256 hoặc ít hơn.
Những màu này tạo thành "bản đồ màu" (colormap) của ảnh, và mỗi màu trong ảnh được gán
bằng một màu từ bản đồ màu. Các ảnh indexed có ưu điểm là chúng có thể được biểu thị bên
trong máy tính theo một kiểu tiêu tốn tương đối ít bộ nhớ, và nếu nhớ lại thời kỳ "đồ đá máy
tính" (ví dụ như 10 năm trước đây), chúng được sử dụng rất phổ biến. Khi thời gian dần trôi qua,
chúng được sử dụng ngày càng ít hơn, nhưng chúng vẫn còn đủ quan trọng để đáng được GIMP
hỗ trợ. (Ngoài ra, có một vài kiểu xử lý ảnh quan trọng dễ thực hiện hơn với các ảnh indexed hơn
là với các ảnh RGB có màu liên tục.)
Một số kiểu tập tin được sử dụng rất phổ biến (kể cả ảnh GIF) tạo ra các ảnh indexed khi chúng
được mở ra trong GIMP. Nhiều công cụ của GIMP không làm việc thật tốt với các ảnh indexed và nhiều bộ lọc hoàn toàn không làm việc - do giới hạn các màu có trong đó. Vì điều này, thông
thường thì tốt nhất là ta nên chuyển ảnh sang chế độ RGB trước khi làm việc trên ảnh đó. Nếu
cần thiết, bạn có thể đổi ngược nó trở lại chế độ indexed khi bạn chuẩn bị lưu ảnh.
GIMP có khả năng chuyển đổi một ảnh từ kiểu này sang kiểu khác một cách dễ dàng, bằng lệnh
Mode trong menu Ảnh. Tất nhiên là một số kiểu chuyển đổi (ví dụ như RGB thành thang độ xám
hoặc indexed) làm mất thông tin và không thể phục hồi lại được bằng cách chuyển đổi ngược
chiều.
Ghi chú
Nếu bạn đang định sử dụng một bộ lọc trên một ảnh, và lệnh đó bị "xám màu" trên
menu, thì nguyên nhân phổ biến nhất là ảnh (hoặc, cụ thể hơn là lớp) mà bạn đang xử lý
có kiểu sai. Nhiều bộ lọc không thể chạy được trên các ảnh indexed. Một số chỉ có thể
được sử dụng trên các ảnh RGB, hoặc các ảnh thang độ xám. Một số bộ lọc chỉ có thể sử
dụng được trên các ảnh RGB, một chỉ chạy trên các ảnh thang độ xám. Một số cũng đòi
hỏi sự có mặt hoặc không của kênh alpha. Thông thường cách "sửa chữa" điều này là
chuyển ảnh sang một kiểu khác, phổ biến nhất là RGB.
62
4.2. QuickMask
Các công cụ chọn đôi khi bộc lộ các hạn chế của chúng khi phải sử dụng để tạo ra một phép chọn
phức tạp. Trong những trường hợp này, sử dụng QuickMask có thể khiến cho mọi việc dễ dàng
hơn rất nhiều. Nói một cách đơn giản, QuickMask cho phép bạn vẽ lên một phép chọn thay vì
chỉ chạy theo đường viền của nó.
Tổng quan
Thông thường khi bạn tạo ra một phép chọn trong GIMP, bạn thấy nó được biểu hiện bằng
đường "kiến chạy" quanh đường viền của vùng được chọn. Nhưng thực ra có thể có nhiều thứ
trong một phép chọn hơn là những đường "kiến chạy" thể hiện: trong GIMP, một phép chọn thực
chất là một kênh thang độ xám hoàn chỉnh (full-fledged grayscale channel) , bao trùm lên ảnh,
với các giá trị điểm ảnh thay đổi từ 0 (không được chọn) cho đến 256 (được chọn hoàn toàn).
Đường "kiến chạy" được vẽ dọc theo đường mép (contour) của các điểm ảnh được chọn một nửa
(half-selected pixels). Do vậy, đường "kiến chạy", cho bạn biết vùng ranh giới hoặc là bên trong
hoặc là bên ngoài, thực ra là một "nhát cắt" qua một thực thể liên tục (continuum).
QuickMask là cách mà GIMP thể hiện cho bạn thấy cấu trúc đầy đủ của phép chọn. Kích hoạt nó
còn cho phép bạn khả năng tương tác với phép chọn theo những cách mới và mạnh mẽ hơn
nhiều. Để kích hoạt QuickMask, nhắp chuột vào nút nhỏ có đường viền màu đỏ ở góc dưới bên
trái của cửa sổ ảnh. Đây là nút có chức năng bật tắt, do vậy nhắp chuột lần nữa vào nó sẽ đưa bạn
trở lại chế độ đường "kiến chạy" bình thường. Bạn cũng có thể kích hoạt QuickMask bằng cách
chọn trong menu cửa sổ ảnh Select->Toggle QuickMask, hoặc bằng cách dùng tổ hợp phím tắt
Shift+Q.
Kích hoạt QuickMask cho bạn thấy phép chọn giống như thể nó là một màn hình trong suốt
chồng lên ảnh, mà trong đó độ trong suốt của mỗi điểm ảnh chỉ ra cho ta biết pixel đó được chọn
ở mức độ nào. Theo mặc định, "mặt nạ" được thể hiện bằng màu đỏ, nhưng bạn có thể thay đổi
nó nếu màu "mặt nạ" khác thuận tiện hơn cho bạn. Một điểm ảnh được chọn càng ít thì nó bị
"mặt nạ" che càng ít. Các điểm ảnh được chọn hoàn toàn được thể hiện hoàn toàn trong suốt.
Khi bạn đang ở chế độ QuickMask, nhiều tác vụ trên ảnh hoạt động trên kênh chọn hơn là trên
bản thân ảnh. Đặc biệt tính chất này bao gồm cả các công cụ sơn (paint tools). "Sơn" bằng màu
trắng sẽ khiến cho các điểm ảnh được chọn, sơn bằng màu đen khiến cho các điểm ảnh được khử
chọn. Bạn có thể sử dụng bất kỳ công cụ sơn nào, kể cả đổ màu (bucket fill) và các công cụ đổ
63
màu theo gradient (gradient fill tools), theo cách này. Những người dùng GIMP có kinh nghiệm
thấy rằng việc "vẽ phép chọn" là cách dễ nhất và hiệu quả nhất để xử lý ảnh một cách tinh vi.
Mẹo
Để lưu một phép chọn đã thực hiện xong bằng QuickMask vào một kênh chọn lệnh sau
trong menu ảnh Select/Save to Channel
Mẹo
Khi QuickMask được kích hoạt, các lệnh Cut và Paste sẽ tác động lên vùng chọn chứ
không phải lên ảnh. Đôi khi bạn có thể tận dụng điều này như là một cách tiện lợi nhất
để chuyển phép chọn từ một ảnh này sang một ảnh khác.
Bạn có thể tìm hiểu thêm về Quickmask và Selection masks trong phần dành riêng cho hộp thoại
Channel.
Các tính chất
Có hai tính chất của QuickMask mà bạn có thể thay đổi bằng cách nhắp chuột phải vào nút lệnh
QuickMask.
Thông thường QuickMask thể hiện vùng không được chọn thành bị "phun sương"
("fogged over") và vùng được chọn "trong suốt" ("in clear"), nhưng bạn có thể đảo ngược
điều này bằng cách chọn "Mask Selected Areas" thay vì để chế độ mặc định "Mask
Unselected Areas".
Bằng cách chọn "Configure Color and Opacity", bạn có thể mở ra một hộp thoại cho
phép bạn thiết lập các giá trị khác với giá trị mặc định, tức là màu đỏ có độ "đục" là 50%.
4.3. Các Lớp
Một cách hay để hình dung một ảnh GIMP là coi nó như một chồng các đối tượng trong suốt:
trong thuật ngữ của GIMP, mỗi đối tượng trong suốt được gọi là một lớp. Về nguyên tắc, một
ảnh có thể có một số lượng không giới hạn các lớp: chỉ phụ thuộc vào lượng bộ nhớ có trên hệ
thống mà thôi. Điều không phải hiếm đối với những người dùng kinh nghiệm là họ làm việc với
những ảnh có hàng chục lớp.
Việc tổ chức các lớp trong một ảnh được thể hiện trong hộp thoại Layers, là kiểu cửa sổ quan
trọng cấp thứ hai trong GIMP, sau Hộp Công cụ Chính. Diện mạo của hộp thoại Layers được thể
hiện trên hình minh họa. Cách thức hộp thoại này làm việc được trình bày chi tiết trong phần
Layers Dialog, tuy nhiên chúng tôi sẽ đề cập đến một số khía cạnh của hộp thoại Layers trong
phần này, liên quan đến các tính chất của lớp mà chúng hiển thị.
Mỗi một ảnh mở ra vào bất kỳ thời điểm nào cũng có một vùng có thể vẽ được kích hoạt (active
drawable) duy nhất. Một vùng "có thể vẽ" là một khái niệm trong GIMP bao hàm cả các lớp,
64