Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.59 KB, 53 trang )
bộ phận đông đảo ngời lao động và nhu cầu tuyển lao động theo đúng trình độ chuyên
môn để đáp ứng yêu cầu công việc của ngời sử dụng lao động. Sự hình thành các Trung
tâm dịch vụ việc làm này mang tính tự phát và không chịu sự điều phối, quản lý của Nhà
nớc.
Trong thời gian này, các Trung tâm dịch vụ việc làm của cá nhân, hội, cơ quan, sở
hoặc các tổ chức khác (đợc gọi chung là các Phòng việc làm có thu phí) có thể chia ra
làm hai loại:
- Những phòng việc làm có mục đích kiếm lợi, tức là mọi cá nhân, hội, cơ quan, sở
hoặc mọi tổ chức khác làm môi giới để tìm việc làm cho ngời lao động hoặc cho ngời sử
dụng lao động.
- Những phòng tìm việc làm không có mục đích kiếm lợi gồm những dịch vụ việc
làm của các hội, cơ quan, sở hoặc mọi tổ chức khác, tuy không tìm kiếm một lợi ích vật
chất, nhng có thu của ngời sử dụng lao động một khoản tiền vào cửa. Một khoản đóng
góp hoặc một khoản thù lao nhất định về những dịch vụ đó.
2.2. Giai đoạn từ 1936 - 1950
Sự phát triển rầm rộ của các Phòng việc làm có thu phí bớc đầu tuy có những tác
động tich cực trong việc cân bằng cung cầu trên thị trờng lao động, song ngày càng bộc
lộ nhiều nhợc điểm. Chi phí vào cửa và nhng chi trả vật chất kèm theo quá lớn đã gây
lên những bất bình đối với ngời tìm việc làm cũng nh ngời thuê mớn nhân công. Đứng trớc
tình hình đó, ngày 8/6/1933, Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã triệu tập Hội nghị tại Giơne-vơ và cho Công ớc số 34 Công ớc về các Phòng tìm việc làm có thu phí. Công ớc
này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 18/10/1936 và không áp ụng đối với vấn đề tìm việc làm
cho các thuỷ thủ.
Theo Công ớc số 34, các Phòng tìm việc làm có thu phí nói trên phải đợc đặt dới sự
giám sát của nhà chức trách có thẩm quyền và phải có giấy phép thay mới hàng năm
theo quyết định của nhà chức trách. Các phòng này sẽ chỉ đợc thu phí và các khoản phụ
phí theo biểu giá đã đợc nhà chức trách nói trên chấp thuận và chỉ đợc tìm việc, tuyển
mộ những ngời lao động ra nớc ngoài nếu đợc nhà chức trách có thẩm quyền cho phép
và đợc thực hiện theo sự thoả thuận giữa các quốc gia hữu quan.
2.3. Giai đoạn từ 1950 - 1977
Việc tiếp tục thu phí và các khoản phụ phí dù theo biểu giá đã đợc nhà chức trách
có thẩm quyền cho phép các phòng việc làm có thu phí nhìn chung vẫn thể hiện một số
1
51
5
mặt cha tích cực. Nhiều ngời lao động không đủ tiền để trả chi phí cần thiết. Do vậy, khả
năng tìm kiếm việc làm đối với họ bị hạn chế và họ vẫn tiếp tục ở tình trạng thất nghiệp.
Xét đến khía cạnh này, ngày 17/6/1948 tại Xan Franxisco, trong kỳ họp thứ 31, tổ chức
Lao động quốc tế đã cho ra đời Công ớc số 88 - Công ớc về tổ chức dịch vụ việc làm.
Theo Công ớc này, từ ngày 10/8/1950, mọi nớc thành viên của tổ chức Lao động quốc tế
ILO đã tham gia ký kết công ớc phải thực hiện dịch vụ việc làm công cộng miễn phí.
Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan dịch vụ việc làm, theo tinh thần của Công ớc, là phải bảo
đảm sự hiệp tác, nếu cần, với các cơ quan công cộng và t nhân hữu quan khác, tổ chức
thị trờng việc làm nh một bộ phận khăng khít của một chơng trình quốc gia, nhằm thực
hiện và duy trì tình trạng mọi ngời đều có việc làm và nhằm phát triển, sử dụng các tài
nguyên sản xuất.
Theo Công ớc số 88, dịch vụ việc làm đợc hợp thành một hệ thống quốc gia những
cơ quan việc làm đợc đặt dới sự kiểm soát của nhà chức trách có thẩm quyền. Hệ thống
đó bao gồm mạng lới những cơ quan việc làm địa phơng và nếu cần, những cơ quan việc
làm ở các vùng, với số lợng đủ để phục vụ cho từng vùng địa lý, đợc đặt ở nơi thuận tiên
cho ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Các cơ quan việc làm phải có sự bố trí thích
hợp bằng cách lập các Hội đồng t vấn nhằm bảo đảm sự hợp tác giữa các đại diện của
ngời lao động và ngời sử dụng lao động trong việc tổ chức, điều hành dịch vụ việc làm,
cũng nh trong việc triển khai chính sách dịch vụ việc làm. Chính sách chung của dịch vụ
việc làm là nhằm đa ngời lao động đến nơi có việc làm và phải đợc ấn định sau khi đã
tham khảo ý kiến các đại diện của ngời lao động và ngời sử dụng lao động thông qua các
Hội đồng t vấn đã nêu ở trên. Cũng theo Công ớc này, dịch vụ việc làm phải:
- Giúp cho ngời lao động tìm đợc một việc làm thoả đáng và giúp cho ngời sử dụng
lao động tuyển chọn đợc lao động thích hợp;
- Có những biện pháp thích hợp để tạo điều kiện dễ dàng cho sự di chuyển về nghề
nghiệp, về địa lý (trong vùng hoặc liên vùng, liên quốc gia) nhằm giải quyết sự mất cân
đối cung cầu về lao động giữa các ngành nghề, các vùng, các quốc gia (theo sự thoả
thuận của các Chính phủ hữu quan);
- Thu thập và phân tích mọi thông tin về tình hình thị trờng việc làm và khả năng
diễn biến của thị trờng đó trên toàn quốc, cũng nh trong các nghề, các vùng lãnh thổ,
chuyển các thông tin đó một cách có hệ thống và nhanh chóng tới các nhà chức trách,
các tổ chức của ngời sử dụng lao động và ngời lao động cũng nh công chúng;
- Cộng tác trong việc quản lý sự nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp và trong việc áp dụng
những biện pháp khác nhằm giúp đỡ ngời thất nghiệp;
1
61
6
- Giúp đỡ ở mức cần thiết cho các cơ quan công cộng và t nhân trong việc soạn thảo các
kế hoạch kinh tế - xã hội nhằm tác động thuận lợi đến vấn đề việc làm.
Công ớc cũng khuyến nghị các nớc thành viên phải có những biện pháp để tạo điều
kiện cho các phòng việc làm đợc chuyên môn hoá theo ngành nghề và đáp ứng một
cách thoả đáng những nhu cầu về các dạng tìm việc làm đặc biệt, ví dụ nh tìm việc làm
cho ngời tàn tật.
2.4. Giai đoạn từ 1977 đến nay.
Sự phát triển dịch vụ việc làm ở thập kỷ 60 và những năm đầu của thập kỷ 70 tuy
đạt đợc những thành tựu đáng kể, song cũng còn một số bất cập nhất định. Nhiều khi ng ời tìm việc không đợc qua đào tạo hoặc nếu đợc qua đào tạo thì lĩnh vực chuyên môn đợc
đào tạo lại không đáp ứng đợc nhu cầu của thị trờng lao động. Chính vì lẽ đó, tại Hội nghị
toàn thể của tổ chức Lao động quốc tế ở Giơ-ne-vơ ngày 4/6/1970, Công ớc số 142 Công ớc về hớng nghiệp và đạo nghề trong việc phát triển nguồn nhân lực đã ra đời và
chính thức có hiệu lực từ ngày 19/7/1977 tại các nớc thành viên tham gia ký kết Công ớc.
Theo Công ớc này, mỗi nớc thành viên phải chấp thuận và triển khai những chính
sách, chơng trình hoàn chỉnh có phối hợp về hớng nghiệp và đào tạo nghề; phải thiết lập
thông qua các cơ quan dịch vụ công cộng về việc làm một mối liên hệ chặt chẽ giữa hớng nghiệp, đào tạo nghề và việc làm. Những chính sách và chơng trình đó phải lu ý tới
những nhu cầu, khả năng việc làm và những vấn đề có liên quan ở từng địa phơng và
toàn quốc trên cơ sở trình độ phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá và mối tơng quan giữa
các mục tiêu khai thác tài nguyên, nhân lực và các mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hoá
khác. Nh vậy, hoạt động dịch vụ việc làm đã kiêm thêm chức năng hớng nghiệp và đào
tạo nghề.
Kể từ năm 1988, theo tinh thần của Công ớc số 168, các quốc gia thành viên của
ILO tiến hành xúc tiến việc làm, chống thất nghiệp và đa những biện pháp đặc biệt bảo
đảm trợ cấp thất nghiệp thông qua mạng lới dịch vụ việc làm. Công ớc này khuyến nghị
các nớc thành viên ILO có những biện pháp hữu hiệu nhằm tạo việc làm cho các đối t ợng
đặc biệt nh lao động nữ, lao động bị khuyết tật, lao động dôi d do thay đổi cơ cấu v.v
Phần II
Thực trạng dịch vụ việc làm ở Việt Nam thời gian qua
1
71
7
I. Quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ việc
làm ở Việt Nam
1. Tính tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển dịch vụ việc làm ở Việt
Nam
Kể từ năm 1986, đất nớc ta thực hiện chủ trơng đổi mới, nền kinh tế nớc ta chuyển
sang vận hành theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa, nhiều vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh. Nếu nh trớc đây, việc làm do Nhà nớc
phân bổ, ngời dân không phải tự lo việc làm, sức lao động không đợc thừa nhận là hàng
hoá thì kể từ khi thực hiện chủ trơng đổi mới, Nhà nớc khuyến khích ngời dân tự lo việc
làm cho mình và cho ngời khác. Điều đó có nghĩa là sức lao động đã đợc thừa nhận là
một loại hàng hoá đặc biệt, có thể mua và bán trên thị trờng. Sự gia tăng dân số quá
nhanh, cùng với việc hàng năm có hàng ngàn bộ đội xuất ngũ, hàng trăm ngàn học sinh,
sinh viên tốt nghiệp ra trờng, cùng với ngời cha có việc làm do tinh giảm biên chế, hàng
triệu ngời thiếu việc làm ở nông thôn v.v đang có nhu cầu việc làm đã thúc đẩy sự hình
thành và phát triển thị trờng lao động ở Việt Nam.
Nh vậy, có thể thấy cung về lao động ở thị trờng lao động Việt Nam quá lớn. Trong
khi đó cầu về lao động ở các cơ quan, doanh nghiệp lại tăng chậm do tốc độ đầu t phát
triển sản xuất kinh doanh cha cao. Hơn nữa, việc tìm kiếm việc làm của ngời lao động
cũng nh việc thuê mớn lao động của ngời sử dụng lao động gặp nhiều khó khăn do
những yêu cầu về văn hoá, trình độ, chuyên môn, ngành nghề cha đợc đào tạo Tất cả
những điều đó đòi hỏi phải có khâu trung gian môi giới việc làm. Vì lẽ đó, dịch vụ việc
làm ra đời và sự ra đời đó xuất phát từ những nhu cầu cấp thiết của thực tiễn.
2. Các giai đoạn phát triển dịch vụ việc làm ở nớc ta
Sự phát triển của dịch vụ việc làm ở nớc ta có thể chia làm nhiều giai đoạn:
2.1. Giai đoạn trớc 1986
Trong giai đoạn này, nền kinh tế nớc ta đang còn vận hành theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, việc phân bổ, sử dụng lao động do Nhà nớc thực hiện, dịch vụ việc làm cha hình thành.
1
81
8
2.2. Giai đoạn từ 1986 - 1991
Kể từ năm 1986, nền kinh tế nớc ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trờng có
sự điều tiết của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, thị trờng lao động đợc hình
thành. Ngời lao động đợc tự do tìm việc làm, ngời sử dụng lao động đợc tự do thuê mớn
nhân công. Dịch vụ việc làm cũng bắt đầu đợc hình thành từ thời điểm đó.
Theo quyết định số 174 - HĐBT của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) ngày
9/10/1989 về sắp xếp lại các đơn vị kinh tế quốc doanh, đã đề cập đến việc nghiên cứu
cơ chế, chính sách đối với hệ thống Trung tâm đào tạo, đào tạo lại và giới thiệu việc làm.
(Trớc đó, cuối năm 1987, ở thành phố Hồ Chí Minh đã có văn phòng giao dịch giới thiệu
việc làm qua sự cộng tác của Sở Lao động - Thơng binh và Xã hội và Đoàn Thanh niên
địa phơng).
2.3. Giai đoạn từ 1992 - 1994
Trong giai đoạn này, xuất phát từ những đòi hỏi bức xúc của nền kinh tế thị trờng,
ngày 11/4/1992, Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị quyết số 120
về chủ trơng, phơng hớng và biện pháp giải quyết việc làm trong các năm tới, trong đó
nêu rõ: cần mở rộng và phát triển các Trung tâm Dạy nghề và Dịch vụ việc làm ở một
số ngành, tổ chức xã hội và địa phơng có yêu cầu lớn về dạy nghề, trớc hết cho thanh
niên đến tuổi lao động. Nghị quyết cũng nêu rõ: Bộ Lao động - Thơng binh và Xã
hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng quy chế dạy nghề và dịch vụ việc làm,
hớng dẫn chỉ đạo hệ thống các trung tâm này; đồng thời phải tăng cờng liên kết với các
trờng đào tạo và dạy nghề để sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có và đảm bảo
chất lợng dạy nghề; mở rộng quan hệ và tham gia các tổ chức lao động, xã hội quốc tế
và khu vực để phát triển công tác quản lý lao động và các vấn đề xã hội. Theo tinh
thần Nghị quyết 120, dịch vụ việc làm Nhà nớc đợc hình thành. Các Trung tâm Dạy nghề
và Dịch vụ việc làm ở một số ngành, tổ chức xã hội và địa phơng đợc thành lập và đi vào
hoạt động.
Từ năm 1993, các Trung tâm Dạy nghề và Dịch vụ việc làm đợc đổi tên thành
Trung tâm Xúc tiến việc làm có quy chế hoạt động thống nhất theo Quyết định số
146/LĐTBXH - QĐ ngày 17/3/1993 của Bộ trởng Bộ Lao động - Thơng binh và Xã hội.
Theo quy chế này, các Trung tâm Xúc tiến việc làm có nhiệm vụ:
- Tổ chức dạy nghề xã hội, dịch vụ dạy nghề, đào tạo lại, bồi dỡng tay nghề theo
nhu cầu của thị trờng lao động.
1
91
9