Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 97 trang )
16
lạm phát, và lãi suất của các nước Mỹ, Nhật Bản, và Khối EU theo tỷ trọng giá trị giao
thương). Nghiên cứu cho thấy khi có sự kiểm soát các biến ngoại tác cơ chế truyền dẫn
có những sự thay đổi. Nghiên cứu cho thấy có bằng chứng thực nghiệm về tăng lãi suất
chính sách sẽ làm GDP thực giảm khá mạnh, và chính sách tiền tệ có tác động tức thời
đến giá cả thông qua đo lường bằng lãi suất. Bằng chứng yếu về tín dụng tác động đến
lãi suất và cũng không có bằng chứng cho tác động trực tiếp giữa chính sách tiền tệ đến
giá tài sản hay tỷ giá hối đoái thực đa phương tại Thái Lan.
Ismail Fasanya & cộng sự (2013), nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ tới tăng
trưởng kinh tế ở Nigeria trong chuỗi thời gian 1975 - 2010. Với phương pháp ECM,
bài nghiên cứu đã tìm ra rằng 3 chính sách tiền tệ ở Nigeria phụ thuộc vào các công cụ
chính sách quan trọng như lãi suất, tỷ giá, dự trữ và tiền cơ sở, sự đổi mới chính sách
tiền tệ ở Nigeria có tác động tới các tham số kinh tế thực và danh nghĩa.
“Deepak Mohanty (2012) nghiên cứu về kênh truyền dẫn lãi suất tại Ấn Độ. Tác giả sử
dụng phương pháp SVAR cho nghiên cứu của mình. Theo tác giả nhưng năm gần đây
Ấn Độ đã phát triển thị trường tài chính theo công cụ lãi suất nhiều hơn. Quá trình này
được cũng cố thêm bởi bằng chứng thực nghiệm cho thấy lãi suất chính sách truyền tải
thông qua các cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, mặc dù cường độ truyền dẫn khác nhau.Có
bằng chứng thực nghiệm cho thấy chính sách tăng lãi suất có ảnh hưởng trái chiều đến
tăng trưởng sản lượng với độ trễ 2 quý và tác động giảm nhẹ lạm phát với độ trễ 3 quý.
Thời gian đạt trạng thái cân bằng khoảng 8 – 10 quý” theo Trần Ngọc Thơ & Nguyên
Hữu Tuấn (2013)
Tai và cộng sự (2012), nghiên cứu hiệu quả kênh truyền dẫn lãi suất, từ lãi suất thị
trường tiền tệ đến lãi suất bản lẻ của các ngân hàng tại các quốc gia Châu Á. Mẫu
nghiên cứu gồm Hong Kong, Indonesia, Korea, Malaysia, Singapor , Philipine và
Thailand. Tai và cộng sự dùng mô hình GLS (Generalized Least Squares) cho nghiên
cứu. Kết quả cho thấy có truyền dẫn từ lãi suất thị trường tiền tệ đến lãi suất tiền gửi và
17
lãi suất cho vay của các ngân hàng nhưng ở mức thấp và không có sự khác biệt đáng kể
về truyền dẫn của lãi suất thị trường đến hai lãi suất này.
“Rokon Bhuiyan (2012) nghiên cứu truyền dẫn chính sách tiền tệ ở nền kinh tế mở
Canada tiếp cận theo mô hình BSVAR. Kết quả cho thấy chính sách tiền tệ truyền dẫn
thông qua các kênh lãi suất và tỷ giá hối đoái. Cả sản lượng và lạm phát đều có phản
ứng giảm đối với cú sốc thặt chặt chính sách tiền tệ nhưng phản ứng giảm của lạm
phát chậm hơn so với sản lượng. Lạm phát thật sự giảm sau 6 kỳ và tăng trở lại sau kỳ
12” theo Trần Ngọc Thơ & Nguyễn Hữu Tuấn (2013).
Shahnawaz Karim và cộng sự (2011), nghiên cứu này xem xét các tác động của các cú
sốc giá của chính sách tiền tệ ở New Zealand. Phân tích thực nghiệm kết hợp các biến
được đề xuất bởi một mô hình kinh tế vĩ mô mở mới (NOEM), với cả hai biến “giá sản
xuất và giá đồng nội tệ” đối với các hoạt động thị trường (PCP và LCP-PTM) của các
nhà xuất khẩu nước ngoài. Kết quả thực nghiệm cho thấy sự vắng mặt của bất kỳ
puzzle giá và cho thấy rằng chỉ số giá sản xuất (PPI) New Zealand phản ứng chậm hơn
so với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) do một chính sách tiền tệ chặt chẽ trong nước; cho
thấy sự khác biệt giữa truyền dẫn tỷ giá thông qua các cú sốc chính sách tiền tệ để CPI
và PPI kết quả từ chiến lược giá xuất khẩu khác nhau.
Hilde C.Bjørnland, KaiLeitemo (2008). Hai tác giả ước tính sự phụ thuộc giữa chính
sách tiền tệ Mỹ và chỉ số cổ phiếu Standard & Poor 500, bằng cách sử dụng mô hình
VAR cấu trúc. Một giải pháp được đề xuất để giải quyết vấn đề identifying giữa biến
tiền tệ và giá cả chứng khoán bằng cách sử dụng kết hợp ràng buộc trong ngắn hạn và
dài hạn, những đặc tính (ràng buộc) của cú sốc chính sách tiền tệ trong lý thuyết của
Christiano, L.J., Eichenbaum, M., Evans, C.L., (1999). Monetary policy shocks: what
have we learned and to what end? In: Taylor, J.B., Woodford, M. (Eds.), Handbook of
Macroeconomics, vol. 1A.Elsevier, New York, pp. 65–14 được tác giả kế thừa. Nhóm
tác giả đã tìm ra được sự phụ thuộc giữa lãi suất và giá chứng khoán thực. Giá chứng
khoán thực ngay lập tức giảm 7-9% do những cú sốc của chính sách tiền như lãi suất
18
của FED (giữa các ngân hàng) tăng 100 điểm cơ bản. Cú sốc giá cả chứng khoán làm
tăng giá cả chứng khoán thực lên 1% dẫn đầu sự tăng lãi suất và đạt gần 4 điểm cơ bản.
Param Silvapulle (2007), tác giả nghiên cứu truyền dẫn chính sách tiền tệ tại nền kinh
tế mới nổi mở nhỏ là Malaysia bằng mô hình VAR cấu trúc. Nghiên cứu tập trung vào
xem xét phản ứng của nền kinh tế đối với thay đổi cung tiền, tỷ giá, và các cú sốc từ
bên ngoài. Một sự kiện sau khủng hoảng tài chính vào tháng 7 năm 1997, Malaysia đã
áp dụng chế độ tỷ giá cố định từ tháng 9 năm 1998. Với dữ liệu theo tháng từ tháng
một năm 1980 đến tháng 5 năm 2006. Cơ chế truyền dẫn tại Malysia đã được phân tích
qua đánh giá cường độ các phản ứng của các biến trong nước đối với những cú sốc tiền
tệ khác nhau. Kết quả thực nghiệm cho thấy trong kỳ trước khủng hoảng cú sốc chính
sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng, giá cả, tỷ giá và lãi suất;
còn trong thời kỳ hậu khủng hoảng chỉ những cú sốc tiền là có ảnh hưởng mạnh đến
sản lượng. Hơn thế, chính sách tiền tệ trong nước đã dễ bị tổn thương hơn trước những
cú sốc nước ngoài, đặc biệt là các cú sốc giá hàng hóa thế giới và sốc sản lượng cho
giai đoạn sau khủng hoảng. Có những bằng chứng rõ rằng cuộc khủng hoảng năm 1997
đã làm thay đổi vai trò của các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Malaysia.
Bernanke và Blinder (1992), nghiên cứu lãi suất vốn của FED và các kênh truyền dẫn
chính sách tiền tệ tại Mỹ. Nghiên cứu có các nội dung lớn: thứ nhất là lãi suất vốn của
FED (Fed funds rate) là một biến đại diện tốt cho chính sách tiền tệ. Lãi suất vốn của
FED có thể ít bị tác động bởi phản ứng của các biến nội sinh cùng kỳ trong nền kinh tế
hơn là tốc độ tăng tiền (the money growth rate). Thứ hai, lãi suất vốn của FED là một
biến thông tin đặc biệt. Bằng chứng tìm thấy rằng lãi suất của FED vượt trội hơn cả lãi
suất tiền tệ và lãi suất thương phiếu và trái phiếu trong dự báo những biến vĩ mô thực.
Nội dung thứ ba, chính sách tiền tệ là một phần tác động đến sự cấu thành tài sản của
các ngân hàng.
Friedman và Schwartz (1963) hai ông là một trong những tác giả đầu tiên tìm hiểu về
truyền dẫn chính sách tiền tệ. Khi kiểm định dữ liệu về cung tiền, sản lượng cho giai
19
đoạn trước chiến tranh thế giới thứ II tại Mỹ. Hai tác giả đã tìm thấy những luận cứ
CSTT đóng một vài trò quan trọng trong thay đổi của tiền và sản lượng, các tác động
CSTT thường đi trước những thay đổi trong sản lượng.
Những nghiên cứu điển hình tại Việt Nam về cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ.
Trầm Thị Xuân Hương, Võ Xuân Vinh & Nguyễn Phúc Cảnh (2014). Nhóm tác giả sử
dụng mô hình VAR nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế Việt
Nam thông qua kênh truyền dẫn lãi suất. Các quan sát tiến hành theo tháng, từ tháng
1/2000 đến tháng 7/2013, để đánh giá mức độ truyền dẫn tác giả đã chia ra hai giai
đoạn trước và sau 2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở VN giai đoạn trước khủng
hoảng tài chính năm 2008, kênh lãi suất tồn tại đúng với lí thuyết kinh tế vĩ mô.
Nhưng, trong giai đoạn khủng hoảng khi lãi suất điều hành của NHNN tăng dẫn đến
gia tăng lạm phát, điều này cho thấy tồn tại kênh chi phí trong truyền dẫn của chính
sách tiền tệ tại VN tại thời gian này.
Huỳnh Thị Cẩm Hà, Lê Thị Lanh, Lê Thị Hồng Minh & Hoàng Thị Phương Anh
(2014), nghiên cứu này phân tích tác động của các biến số vĩ mô bao gồm cung tiền
(MS), lãi suất cho vay (ITR), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái (EXR) và giá
trị sản lượng công nghiệp (IP) đến thị trường chứng khoán Việt Nam (Vn-Index) trong
giai đoạn từ 2001 đến 2013. Vì giữa các biến tồn tại một vector đồng liên kết nên
nghiên cứu sử dụng mô hình ECM để xác định mối quan hệ giữa các biến trong ngắn
hạn và VECM nhằm kiểm tra mối quan hệ cân bằng dài hạn. Kết quả cho thấy trong
dài hạn, MS và IP có mối quan hệ cùng chiều với Vn-Index, ITR và CPI có mối quan
hệ ngược chiều với Vn-Index. Trường hợp xảy ra các cú sốc của những biến số vĩ mô
thì quá trình Vn-Index điều chỉnh về mức cân bằng là khá chậm.
Nguyễn Phúc Cảnh (2014), nghiên cứu chính sách tiền tệ và thị trường cổ phiếu giai
đoạn 2000 đến 2013 nhằm tìm hiểu truyền dẫn CSTT qua kênh giá tài sản. Nghiên cứu
thực hiện bằng mô hình SVAR, có kết luận CSTT có truyền dẫn mạnh qua thị trường
20
chứng khoán thông qua cung tiền, trong khi lãi suất không có tác động lớn đến thị
trường chứng khoán ở cả hai chỉ số VN-Index, HNX-Index và không làm giá cả thay
đổi.
Trần Ngọc Thơ & Nguyễn Hữu Tuấn (2013), hai tác giả dùng mô hình SVAR để phân
tích cơ chế truyền dẫn CSTT ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu trên các biến: giá dầu, lãi
suất cơ bản của Mỹ là các đại diện biến nước ngoài; sản lượng công nghiệp, lạm phát,
cầu tiền, lãi suất, tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương đại diện cho nền kinh tế Việt
Nam. Để nhận diện tác động của điểm gãy cấu trúc, hai ông đã chia tập dữ liệu nghiên
cứu thành hai giai đoạn trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Bằng chứng thực
nghiệm cho thấy lạm phát Việt Nam nhạy cảm với kênh tỷ giá hối đoái hơn là kênh lãi
suất. Sau WTO, sản lượng khá nhạy cảm với yếu tố giá dầu và tỷ giá. Về các cú sốc
bên ngoài và tỷ giá có tác động đáng kể đến thay đổi của lãi suất. Về tỷ giá hối đoái
danh nghĩa đa phương chịu sự tác động mạnh của lạm phát và sự thay đổi của lãi suất
cơ bản của Mỹ.
Nguyễn Khắc Quốc Bảo (2013), nghiên cứu của tác giả sử dụng phương pháp VECM
để phân tích các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt Nam tác động như thế nào
đến hoạt động kinh tế và giá cả, dữ liệu khảo sát từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 7 năm
2012. Kết quả nghiên cứu có bằng chứng cho thấy thắt chặt chính sách tiền tệ bằng
công cụ lãi suất sẽ làm giảm sản lượng nhưng lại làm tăng lạm phát (hiện tượng puzzle
giá), trong khi mở rộng cung tiền và tăng tỷ giá làm sản lượng gia tăng và lạm phát
giảm. Ngoài ra có bằng chứng cú sốc từ giá chứng khoán tác động rất ít đến sản lượng
và giá cả.
Le & Pfau (2009), tác giả sử dụng phương pháp vector tự hồi quy VAR. Nghiên cứu
tập trung và các mối quan hệ giữa cung tiền, sản lượng thực tế, giá, lãi suất thực, tín
dụng và tỷ giá thực, tập dữ liệu nghiên cứu từ quý 1 năm 1996 đến quý 4 năm 2005. Có
những bằng chứng thực nghiêm cho thấy CSTT có thể ảnh hưởng đến sản lượng thực
vì có liên kết mạnh mẽ giữa cung tiền và sản lượng, tuy nhiên cung tiền chưa có mối
21
liên hệ với lạm phát. Tác giả tìm thấy kênh lãi suất ít quan trọng trong cơ chế truyền
dẫn chính sách tiền tệ. Kênh tỷ giá, nếu có cú sốc trong cung tiền thì vẫn ít tác động
đến tỷ giá thực hiệu lực. Nghiên cứu này cho thấy kênh lãi suất truyền thống không
đóng vai trò quan trọng như kênh tỷ giá và tín dụng.
Nghiên cứu cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ là chủ đề được các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước rất quan tâm, phương pháp nghiên cứu phổ biến thường thấy cho
chủ đề này là VAR hay là SVAR. Tác giả thấy rằng có nhiều bằng chứng thực nghiệm
có ý nghĩa và đây sẽ là cơ sở để kế thừa và làm luận cứ so sánh với kết quả của nghiên
cứu này, riêng các nghiên cứu trong nước đến nay vẫn nghiên cứu nhiều trên biến sản
lượng công nghiệp, và giá cả vẫn đo lường bằng chỉ số giá tiêu dùng. Các nghiên cứu
trước đây được chọn lọc có hệ thống để kế thừa và nghiên cứu này chủ đạo tham khảo
nghiên cứu của Piyachart Phiromswad (2015) và Bernanke (1986).
2.3 Lựa chọn phương pháp và các biến số nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu truyền dẫn chính sách tiền tệ vẫn là một chủ đề rất hay, có nhiều ý
nghĩa thực tiễn. Tác giả nhận thấy các nghiên cứu đã thực hiện đến thời điểm này có
nhiều sự lựa chọn về mặt phương pháp từ đơn giản như VAR, VECM đến đến những
mô hình phức tạp như SVAR, BSVAR hay ARDL,… việc lựa chọn phương pháp nào
cho nghiên cứu vẫn phụ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu, đăc trưng các biến nghiên cứu,
và kích thước mẫu nghiên cứu.
Về truyền dẫn chính sách tiền tệ hầu hết các nghiên cứu đã thực hiện đều kiểm tra qua
các kênh chính như: kênh lãi suất (kênh truyền thống), kênh tỷ giá hối đoái, kênh tín
dụng, và kênh giá tài sản. Ngoài ra các nghiên cứu gần đây một số tác giả đã đưa vào
cú sốc ngoại tác hay biến kiểm soát vào mô hình để quan sát phản ứng của nền kinh tế
trong nước thay đổi như thế nào khi có các cú sốc từ bên ngoài.
22
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Mô tả dữ liệu
Dựa trên những nền tảng lý thuyết về truyền dẫn chính sách tiền tệ và kế thừa các
nghiên cứu trước đây, tác giả đã đưa ra lựa chọn biến nghiên cứu cho đề tài ở phần 2.
Về dữ liệu thứ cấp của các biến nghiên cứu đươc thu thập theo quý, dữ liệu các biến
đều bắt đầu từ quý 3 năm 2000 đến hết quý 4 năm 2014. Nguồn thu thập và các mô tả
chi tiết hơn được trình bày ở Bảng 3.1.
Bảng 3.1: Bảng Mô tả biến nghiên cứu
Tên Biến
Ký hiệu
Nguồn
Đơn Vị
Mô Tả
Biến Trong nước
Tổng sản phẩm
GDP_R
quốc nội thực
Datastream &
Tỷ đồng
TCTK
(Năm gốc 1994(3))
Chỉ số giảm phát
Tính dựa trên
GDP_D tính từ GDP
GDP (Năm gốc
nguồn
danh nghĩa(4) và GDP
1994)
Datastream &
thực năm gốc 1994
GDP_D
Tổng Cục
Thống Kê
Lãi suất chính sách
I_D
IMF
%
Lãi suất cơ bản của
NHNN Việt Nam
Tỷ giá hối đoái
thực đa phương
(Năm Gốc 2007)
(3)
REER
BRUEGEL
Tỷ giá thực đa phương
DATASETS
của Việt Nam với 41
đối tác
GDP thực của Việt Nam hiện nay lấy năm gốc là 2010, tuy nhiên do Tổng Cục Thống Kê không tính GDP
theo quý trên năm gốc 2010 cho các quý trước năm 2010. Nên trong nghiên cứu này để đồng bộ dữ liệu GDP
thực của Việt Nam năm được lấy theo năm gốc 1994.
(4)
GDP danh nghĩa được lấy từ nguồn Tổng cục Thống kê Việt Nam, GDP danh nghĩa chỉ có dạng tích lũy theo
hàng quý. Tác giả đã tính lại cho từng quý.