1. Trang chủ >
  2. Cao đẳng - Đại học >
  3. Chuyên ngành kinh tế >

1 Mô tả dữ liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 97 trang )


23



Tên Biến

Chỉ số giá VN-



Ký hiệu

VNI



Nguồn

HOSE



Đơn Vị

Điểm



Mô Tả

Trung Bình giá đóng

cửa hàng ngày chỉ số



Index



VN-Index

Tín dụng từ Ngân



CREDIT



IMF



hàng Nhà Nước



Tỷ

VND



Việt Nam

Lãi suất cho vay



MLR



IMF



%



Lãi suất cho vay trung

bình của các Ngân

Hàng



Biến Kiểm soát

Tăng trưởng kinh

tế nước ngoài



GDP_F



Tính dựa trên

nguồn IMF



%



Tổ hợp tăng trưởng

GDP của 4 khối nước

gồm Mỹ, EU, Nhật

Bản, Trung Quốc.

Nguồn: Tổng hợp của tác giả



Tỷ giá danh nghĩa đa phương REER, trong nghiên cứu này REER được thu thập từ

nguồn dữ liệu thứ cấp từ website http://bruegel.org/, REER được tính theo công thức:



Với NEERt là tỷ giá danh nghĩa đa phương;

là chỉ số giá tiêu dùng của đối tác thứ i;



là chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam;

là tỷ giá danh nghĩa song phương



24



giữa Việt Nam với đối tác i (yết giá gián tiếp);



là tỉ trọng của đối tác thứ i. Yết giá



đồng tiền ở đây theo phương pháp gián tiếp nghĩa là đồng tiền Việt Nam tăng thể hiện

tỷ giá danh nghĩa tăng và khi đó REER tăng.

Luận giải cho việc lựa chọn biến nghiên cứu: Các biến số nghiên cứu được rút trích

từ các lý thuyết nền của Mishkin (1996 & 2004), Tobin (1969), Modigliani (1971) và

các nghiên cứu thực nghiêm trước đây.

Các biến số trong nước: Biến tổng sản phẩm quốc nội thực ký hiệu GDP_R, biến số

này được xem như sản lượng trong lý thuyết của Mishkin, các tác giả Piyachart

Phiromsward (2015), hay Bernanke cũng sử dụng các biến sản lượng thực; Biến số giá

cả thông qua chỉ số giảm phát GDP ký hiệu GDP_D(5) theo Piyachart Phiromsward

(2015). Chỉ số giảm phát GDP là một đại lượng để tính lạm phát và cho mô tả về giá cả

trong nước một cách bao quát tốt hơn, chỉ số giảm phát GDP bao gồm tất cả các hàng

hóa nội địa, trong khi đó chỉ số giá tiêu dùng chỉ bao gồm rổ các hàng hóa và dịch vụ

tiêu dùng. Biến số tổng sản phẩm quốc nội và lạm phát là hai biến số mục tiêu của

chính sách tiền tệ; Biến lãi suất chính sách là một công cụ của chính sách tiền tệ ký

hiệu I_D, và biến lãi suất cho vay đại diện kênh lãi suất sách theo Piyachart

Phiromsward (2015) và tại Việt Nam tác giả Nguyễn Văn Công (2015); Tỷ giá thực đa

phương đại diện kênh tỷ giá được hầu hết các nghiên cứu thực hiện như Piyachart

Phiromsward (2015) và theo đề xuất của Le Viet Hung & Wade Pfau (2008), chỉ số tỷ

giá thực đa phương lựa chọn vì Việt Nam sau năm 1995 đến hiện nay có giao thương

với nhiều đối tác thương mại khác nhau, do đó chỉ số tỷ giá đa phương nhằm thể hiện

tính đại diện cho rổ tiền tệ, và thêm vào đó tỷ giá thực được lựa chọn nhằm loại trừ tác

động của lạm phát; biến tín dụng từ Ngân hàng Nhà nước đại diện kênh tín dụng

CREDIT, và chỉ số giá thị trường chứng khoán biến VNI đại diện một phần cho kênh

giá tài sản theo Piyachart Phiromsward (2015), biến VNI được tính trung bình giá đóng

(5)



Chỉ số giảm phát GDP = 100 x (GDP danh nghĩa/GDP thực). Chỉ số giảm phát GDP là đại lượng phản ánh

mức giá chung của tất cả các hàng, dịch vụ trong nước.



25



cửa của phiên giao dịch theo đề xuất của Hilde C. Bjørnland & Kai Leitemo (2008),

Hashem E. Abouwafia & Marcus J. Chambers (2014) vì theo hai ông chỉ số giá chứng

khoán trung bình đại diện tốt hơn cho tài sản là cổ phiếu .

Việt Nam là nền kinh tế nhỏ và mở với tổng giá trị xuất và nhập khẩu hàng hóa và dịch

vụ trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2014 so với GDP bình quân đạt trung bình

75%, từ sau năm 2000 Việt Nam đã có giao thương mạnh mẽ hơn với một số cường

quốc kinh tế, nên sự thay đổi của các nền kinh tế một phần nào đó tác động đến nền

kinh tế Việt Nam thông qua các dòng vốn và giao thương hàng hóa, dịch vụ theo quan

điểm của (Galindo, 2007), (Levine, 2001, hay calvo,1998, stiglitz, 2000). Trong nghiên

cứu này biến ngoại tác tăng trưởng nước ngoài (ký hiệu GDP_F) được chọn làm biến

kiểm soát. GDP_F là biến số tính trung bình theo tỷ trọng(6) của tốc độ tăng trưởng

GDP hằng quý của các nền kinh tế lớn, biến số này là một đại diện cho những tác động

bên ngoài đến nền kinh tế Việt Nam. Các nền kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, khối EU, hay

Trung Quốc được lựa chọn, vì đây là những nền kinh tế lớn, sự thay đổi trong nền kinh

tế của họ không chỉ tác động đến Việt Nam mà còn có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Ngoài

ra giao thương xuất và nhập khẩu Việt Nam với bốn nền kinh tế nêu trên chiếm khoảng

47% trong tổng giao thương của Việt Nam với tất cả các đối tác. Biến ngoại tác

GDP_F tác động đến nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên kinh tế Việt Nam là một nước

nhỏ nên giả định không có tác động đến GDP_F. Biến tăng trưởng ngước ngoài

GDP_F được đưa vào như một biến kiểm soát (biến ngoại sinh) làm đại diện và đánh

giá tác động các nền kinh tế bên ngoài ảnh hưởng đến kinh tế trong nước, và đưa biến

này vào giúp phản ánh tốt hơn diễn biến thực tế của nền kinh tế. Dario Caldara &

Christophe Kamps (2008) và Piyachart Phiromsward (2015) cũng đưa biến kiểm soát

vào mô hình SVAR.



(6)



Tỷ trọng đối tác i = (Tổng giá trị nhập khẩu cộng xuất khẩu giữa Việt Nam với đối tác i)/Tổng giá trị giao thương

Việt Nam với các đối tác), i chạy từ 1 đến 4. Tỷ trọng giao thương được lấy từ nguồn Tổng Cục Hải Quan Việt

Nam.



26



Xử lý biến

Các biến số được kiểm tra và xử lý mùa vụ, một số biến được hiệu chỉnh yếu tố mùa

vụ theo phương pháp so sánh số liệu tại một quý trong năm với một quý ở cùng thời

điểm năm trước đó (áp dụng theo phương pháp điều chỉnh X11/X12 do Bureau of

Census của Mỹ xây dựng). Ngoài ra, khi so sánh các chuỗi dữ liệu giữa 2 kỳ liền kề

nhau nên xử lý mùa vụ.

Các biến sau khi được xử lý mùa vụ, lần lượt được lấy logarithm (log) cho các biến

như GDP_R, GDP_D, REER, CREDIT. Việc lấy logarithm các chuỗi dữ liệu một mặt

sẽ giúp dữ liệu ổn định hơn, mặt khác sẽ giúp cho các biến số trong mô hình có cùng

đơn vị tính toán (%).

Các chuỗi dữ liệu, kết quả được xử lý qua phần mềm Excel 2007 và Eviews 8.

3.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất

Mục tiêu của đề tài là đánh giá cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ tại Việt

Nam trong ngắn hạn. Đầu tiên mô hình VAR nghiên cứu trên bốn biến: GDP_R,

GDP_D, I_D, REER được xây dựng, mô hình này gọi tên mô hình cơ bản. Bốn

biến số trên là các biến số vĩ mô cơ bản của nền kinh tế.

Để nghiên cứu sâu hơn cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Viêt Nam, ba biến

đại diện cho ba kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ (ngoại trừ kênh tỷ giá đã được

đưa vào mô hình cơ bản) được thêm vào trong mô hình cơ bản. Với biến tín dụng

từ Ngân hàng Nhà nước là CREDIT đại diện cho kênh tín dụng, biến chỉ số giá VnIndex là VNI đại diện cho kênh giá tài sản, và lãi suất cho vay là MLR đại diện cho

kênh lãi suất truyền thống. Mô hình cơ bản thêm ba biến đại diện cho ba kênh

truyền được gọi là mô hình SVAR. Các mô hình VAR và SVAR là các mô hình

kinh điển cho nghiên cứu về truyền dẫn, và việc sử dụng các mô hình trong phân

tích cho ngắn hạn là phù hợp.



27



Ma trận ràng buộc A của mô hình SVAR.

Một số cách để xây dựng các ràng buộc cho ma trận (gọi là Ma Trận A), có thể dựa

trên lý thuyết kinh tế để xây dựng ràng buộc, hoặc dựa vào các nghiên cứu thực

nghiệm, hoặc có thể dựa vào các áp đặt từ tính toán tập dữ liệu,… Trong nghiên cứu

này, các ràng buộc của ma trận A được áp đặt dựa trên lý thuyết kinh tế, và các nghiên

cứu được quốc tế công nhận.

Cấu trúc hệ phương trình SVAR dạng ma trận:

Ma Trận A



=



1



0



0



0



0



0



0



a21



1



0



0



0



0



0



a31



a32



1



0



0



0



0



a41



a42



a43



1



0



1



0



a51



a52



a53



a51



1



0



1



a61



a62



a63



a64



0



1



0



a71



a72



a73



a74



a75



a76



1



b11



0



0



0



0



0



0



0



b22



0



0



0



0



0



0



0



b33



0



0



0



0



0



0



0



b44



0



0



0



0



0



0



0



b55



0



0



0



0



0



0



0



b66



0



0



0



0



0



0



0



b77



µI_D



X

µVNI



X



Các ràng buộc của ma trận dựa theo lý thuyết kinh tế và các nghiên cứu của Sim

(1980), Bernanke (1986), Bernanke & Blinder (1992), Uhlig (2005), Hilde C.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

×