1. Trang chủ >
  2. Tài Chính - Ngân Hàng >
  3. Ngân hàng - Tín dụng >

1 Giái pháp phát triển nguồn nguyên liệu:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.79 KB, 111 trang )


2883



đang phát triển một cách tính tự phát, manh mún và chủ yếu do các cơ sở tư

nhân thực hiện. Nhiều địa phương còn dùng nguồn hải sản để làm phân bón

do khả năng công suất của các nhà máy sản xuất bột cá là rất hạn chế. Chính

vì thế mà ở các tỉnh có sản lượng sản xuất thuỷ hải sản cao như Kiên Giang

(120 ngàn tấn), Cà Mau (65 ngàn tấn) Quảng Nam, Đà Nẵng (30 ngàn tấn),

Bến Tre (33 ngàn tấn)… cần phải xây dựng và đầu tư vào các nhà máy sản

xuất bột cá. Đi đôi với chính sách đẩy mạnh phát triển ngành đánh bắt hải

sản, Nhà nước cần hỗ trợ vốn bằng những chính sách ưu đãi tín dụng cho

việc đầu tư và xây dựng các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng

một phần nguyên liệu bột cá cho chế biến thức ăn chăn nuôi.

o Hiện nay một số nguyên liệu như khô dầu, bột cá, khoáng vô cơ, khoáng hữu

cơ có thể sản xuất trong nước nhưng không được ưa chuộng vì nhiễm nấm

mốc, độc tố cao. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do bảo quản, công

nghệ trừ khử nấm mốc, độc tố còn yếu. Cho nên, cần thiết phải có chính sách

phát triển nhằm phối hợp các ngành công nghiệp, hóa dược, hóa công

nghiệp, đầu tư nghiên cứu công nghệ sản xuất khoáng vô cơ, khoáng hữu cơ,

khoáng vi lượng bằng nguyên liệu sẵn có trong nước. Về lâu dài phải thực

hiện các biện pháp dài hạn để có thể chủ động nguồn nguyên liệu chế biến

thức ăn chăn nuôi trong nước, đặc biệt là các nguyên liệu chính quyết định

giá thành sản phẩm như bắp, dầu cá, và các chất khoáng.

 Qui hoạch và khuyến khích phát triển nguồn nguyên liệu cung cấp năng lượng

o Sắn và tấm cám là hai nguyên liệu có thể đảm bảo nhu cầu nguyên liệu chế

biến thức ăn chăn nuôi. Đặc biệt trong những năm gần đây, với chủ trương

của Nhà nước là đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, có nhiều chính

sách kinh tế hỗ trợ cho nông dân tăng gia sản xuất nên sản lượng đã không

ngừng gia tăng. Như vậy xét về lâu về dài, nguồn tấm cám có thể đảm bảo

cung ứng cho nhu cầu chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước nếu biết khai

thác và sử dụng một cách hợp lý. Tuy nhiên đối với sự thiếu hụt trầm trọng



2884



bắp và đậu tương là điều cần quan tâm. Với diện tích canh tác khoảng 9,5

triệu ha sử dụng cho cây nông nghiệp hàng năm, trong đó phân bổ cho cây

bắp là 990 ngàn ha, cây đậu tương là 182 ngàn ha, vì vậy không thể nói

nguyên liệu thiếu hụt trầm trọng là do thiếu diện tích đất canh tác mà là do

Nhà nước chưa qui hoạch một cách hợp lý, năng suất cây trồng đang còn ở

mức thấp, và một nguyên nhân hết sức quan trọng là hiệu quả kinh tế đối với

các loại cây trồng này chưa cao.

o Xuất phát từ những nguyên nhân trên, trong chiến lược phát triển ngành

Nông nghiệp, Nhà nước nên qui hoạch lại diện tích đất canh tác cho từng

loại cây trồng một cách hợp lý hơn. Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, về cơ bản từ nay đến năm 2010 đã có bước điều chỉnh diện

tích đất canh tác theo xu hướng giảm diện tích đất trồng lúa gạo (từ 7.5 triệu

ha xuống còn 6.8 triệu ha), tăng diện tích canh tác bắp (từ 890 ngàn ha lên 1

triệu ha) và tăng điện tích canh tác cây đậu tương (từ 182 ngàn ha lên 360

ngàn ha). Để thực hiện được mục tiêu trên, Nhà nước phải có chính sách hỗ

trợ người nông dân trong quá trình chuyển đối cơ cấu cây trồng. Bởi một

thực tế cho thấy, không thể ép người nông dân phải trồng cây này, bỏ cây kia

khi mà hiệu quả kinh tế thiết thực của nó chưa cao. Thiết nghĩ, Nhà nước

phải có chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách trợ giá hợp lý đối với nông

dân trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng.

o Tuy nhiên theo quan điểm của tôi, trong môi trường hội nhập kinh tế thì tốt

hơn hết là cần tập trung phát triển những cây trồng gì mà chúng ta có lợi thế.

Chắc chắn sắn, bắp là những cây trồng cần được ưu tiên. Cần phải có các cơ

o



sở chế biến và bảo quản nguyên liệu này khi vào vụ.

Đi đôi với quá trình qui hoạch, hợp lý hoá diện tích canh tác cây nông

nghiệp hàng năm, Nhà nước nên đầu tư hơn nữa vào công tác nghiên cứu,

tìm kiếm giống mới nhằm tăng năng suất cây trồng hoặc tăng vụ đối với

những địa phương, những khu vực có điều kiện tư nhiên phù hợp. Đây là



2885



nhiệm vụ hết sức quan trọng và đang được Nhà nước đặt lên hàng đầu, bởi

suy cho cùng diện tích đất canh tác là có hạn. Việc tăng diện tích từng loại

cây trồng cũng chỉ là mang tính tạm thời và tương đối bởi không thể phát

triển một cách mất cân đối đối với một loại cây trồng trong khi nhu cầu xã

hội đối với từng loại cây trông là đều cần thiết như nhau.

o Theo số liệu phân tích của hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, nếu tăng

diện tích canh tác bắp hiện nay lên 1 triệu ha, diện tích trồng sắn lên 300400 ngàn ha và sử dụng 10- 15% cám và gạo gãy từ nguồn xay xát lúa gạo

cũng mới chỉ có 4,5 đến 5 triệu tấn nguyên liệu giàu năng lượng. Vì vậy

ngoài việc mở rộng diện tích canh tác bắp, sắn phải đồng thời nâng năng

suất bắp từ 2,8 tấn/ha lên khoảng 3,5 tấn/ha. Đưa năng suất trồng sắn lên 67 tấn/ha. Việc đó có thể thực hiện được bởi vì năng suất bắp, sắn của Việt

Nam thấp là vì giống chưa tốt, đầu tư cho thuỷ lợi, phân bón chưa nhiều.

Hiện nay, năng suất bắp của Mỹ tới 7 tấn/ha, sắn từ 9-10 tấn/ha điều này

cho thấy khả năng tăng năng suất bắp và sắn là hoàn toàn có thể thực hiện

được.

3.1.2 Kiểm soát nguồn nguyên liệu nhập ngoại theo xu hướng giảm giá thành

nhập khẩu

Sự phát triển chế biến thức ăn chăn nuôi Việt Nam có sự đóng góp rất lớn của

chính sách đổi mới với sự tham gia mạnh mẽ của thành phần kinh tế khu vực tư nhân.

Nhiều tập đoàn danh tiếng nước ngoài như CP (Thái Lan), New Hope (Trung Quốc),

Tập đoàn Nông Lâm (Đài Loan), Beyer (Đức), đã có mặt ở Việt Nam thực sự làm

thay đổi cả về chất và lượng của ngành chế biến thức chăn nuôi. Điều này có thể được

nhận ra bằng sự phong phú đa dạng chủng loại sản phẩm cũng như khối lượng thức

ăn chăn nuôi công nghiệp được sử dụng tăng theo thời gian. Song một thực tế cho

thấy, ngay cả khi các công ty nước ngoài có mặt tại Việt Nam để tận dụng lợi thế giá

thuê nhân công rẻ thì giá thức ăn chăn nuôi của họ sản xuất ra vẫn ở mức cao.



2886



Theo Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, một trong những nguyên nhân

chính làm giá thức ăn chăn nuôi cao như vậy là do thức ăn chăn nuôi được chế biến ở

Việt Nam có đến 50-60% là giá trị nguyên liệu ngoại nhập. Hàng năm chúng ta phải

nhập khẩu hàng chục vạn tấn bắp, 800-900 ngàn tấn khô dầu với giá thực tế cao do

thuế nhập khẩu 5%, 150-200 ngàn tấn bột cá với mức thuế nhập khẩu 10%. Các thành

phần cần thiết cho chế biến thức ăn chăn nuôi như lysine, methionine, vitamin,

khoáng vô cơ, khoáng hữu cơ, vi lượng, chất chống mốc, chất ô xy hóa, men tiêu hóa,

hương liệu, kháng sinh phải nhập khẩu 100%. Ngoài các khoản thuế nhập khẩu, các

doanh nghiệp còn phải trả chi phí vận chuyển nguyên liệu rất cao do giá nhiên liệu

tăng hàng ngày.

Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu với mức giá cao đã dẫn

đến tình trạng đầu cơ tăng giá nguyên liệu trong nước và đó là một trong những

nguyên nhân chính làm thị trường nguyên liệu, thị trường thức ăn chăn nuôi luôn

trong tình trạng giá cao và bất ổn. Tuy nhiên với năng lực sản xuất nguyên liệu trong

nước như hiện nay, việc phải nhập khẩu một số nguyên liệu cho ngành sản xuất thức

ăn chăn nuôi là điều không tránh khỏi. Nhà nước cần phải có các giải pháp cụ thể

nhằm san bằng khoảng cách chất lượng, giá cả nguyên liệu khẩu với thị trường

nguyên liệu trong nước và quốc tế, cụ thể:

-



Ưu tiên khuyến khích các nhà khoa học, các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước

đầu tư công nghệ cao, sản xuất các nguyên liệu như lysine, methionine, threonin, cytin,



-



chất ôxy hóa, chất chống mốc, hương liệu, men tiêu hóa...

Chính phủ nên có chính sách giảm thuế nhập khẩu, nhằm góp phần giảm giá thành

nguyên vật liệu trong nước. Theo tính toán trên cơ cấu giá phí nguyên liệu nhập ngoại,

để thu hẹp khoảng các với thị trường nguyên liệu trong nước Hiệp hội cần đề nghị

Chính phủ cho phép giảm thuế nhập khẩu bắp từ 5% xuống còn 0%. Giảm thuế nhập

khẩu acid amin licin từ 15-20% xuống còn 5% và thuế giá trị gia tăng cho licin từ 10%



2887



còn 5%. Đồng thời cần cho gia hạn thời gian nộp thuế nhập khẩu nguyên liệu và giãn

-



nợ cho các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi đã cung cấp cho đàn gia cầm bị tiêu hủy.

Ngoài một số công ty lớn có khả năng nhập khẩu nguyên liệu với khối lượng lớn, các

doanh nghiệp còn lại hầu như nhập khẩu với số lượng nhỏ, manh mún dẫn đến tình

trạng phải chịu một khoản chi phí vận chuyển, chi phí mở L/C rất cao. Thậm chí có

những doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu thông qua các đơn vị môi giới nên

phải chịu thêm một khoản chi phí ủy thác hoặc mua với giá cao do tình trạng đầu cơ

giá. Đứng trước tình hình trên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thiết phải lên kế

hoạch nhập khẩu nguyên liệu, trên cơ sở đó có thể liên kết để mở chung một L/C với

khối lượng lớn nhằm giảm bớt chi phí vận chuyển trong cơ cấu giá thành nguyên vật

liệu.

3.1.3 Các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi phải quan tâm và đầu tư vào

công tác thu mua và bảo quản nguyên liệu.

Chiếm trên 80% giá thành sản phẩm, nguyên liệu là một trong những yếu tố

quan trọng quyết định đến giá thành và chất lượng sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Sản

phẩm chỉ đạt chất lượng khi nguyên liệu đầu vào phải đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu

chuẩn chất lượng qui định. Do vậy nhà sản xuất luôn luôn phải đặt vấn đề là làm thế

nào để thu mua nguyên vật liệu đầu vào đạt tiêu chuẩn chất lượng cao nhất và sử dụng

nó một cách tiết kiệm nhất. Để giải quyết hai vấn đề trên, khâu chọn mua, bảo quản

nguyên liệu và lập khẩu phần thức ăn gia súc, gia cầm là các nhân nhân tố đóng vai trò

quyết định.

 Đối với công tác chọn mua và bảo quản nguyên liệu



Thị trường nguyên liệu trong nước thường biến động và có tính thời vụ. Mùa

thu hoạch cao điểm nguyên liệu thô như bắp, đậu tương thuộc khu vực miền Đông

Nam Bộ, Duyên Hải Miền Trung không phù hợp với thời cao điểm của ngành chăn

nuôi, đặc biệt là các trang trại chăn nuôi vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Xuất phát từ

những bất cập trên, bắt buộc các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi phải thu mua



2888



và lưu trữ với một khối lượng lớn nguyên vật liệu dự phòng sản xuất cho mùa chăn

nuôi, thậm chỉ phải nhập khẩu nguyên liệu từ thị trường nước ngoài với chi phí vận

chuyển và thuế nhập khẩu rất cao. Và một thực tế cho thấy chất lượng nguyên liệu thô

đang bị giảm nhanh sau thu hoạch, giá thành nguyên vật liệu nhập khẩu cao, việc vận

chuyển và lưu trữ nguyên liệu đang gặp nhiều khó khăn. Để hạn chế tình trạng trên, các

doanh nghiệp cần triển thực hiện một số giải pháp sau:





Nhà sản xuất phải tiến hành công tác thu mua và bảo quản nguyên liệu theo

đúng qui trình kỹ thuật. Trong công tác thu mua, cần phải quan tâm đến một

số chỉ tiêu vật lý, hoá học của nguyên liệu. Một số chỉ tiêu và tiêu chí mà

nhà sản xuất cần quan tâm là xuất xứ nguyên vật liệu, độ ẩm, mốc, tỷ lệ phế

phẩm và tạp phẩm. Bởi vì một số nguyên liệu như ngũ cốc, sắn… hoặc phụ

phẩm nông nghiệp nếu bị mốc, hoặc độ ẩm cao sẽ làm cho chất lượng thức

ăn chăn nuôi kém, hiệu quả kinh tế thấp. Đặc biệt nó chứa nhiều chất độc



ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe vật nuôi và con người.

 Thông thường nguyên liệu mua về chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp đang ở

dạng thô với số lượng lớn và chưa qua xử lý. Với khí hậu nhiệt đới ẩm thấp

vào mùa thu hoạch, các loại nguyên liệu như ngũ cốc, khô dầu, đậu tương,

bột cá thường rất dễ bị nấm mốc, vi khuẩn sẽ bị phân hủy và sinh ra nhiệt

làm tiêu hao rất nhanh các chất dinh dưỡng sẵn có trong nguyên liệu. Chính

vì thế đòi hỏi các nhà sản xuất phải sấy khô, sơ chế loại bỏ bớt phế phẩm

trước khi đưa vào sản xuất hoặc lưu trữ trong điều kiện khô sạch. Máy móc,

công cụ, bồn chứa thường xuyên phải được vệ sinh, sấy khô trong quá trình

lưu trữ nguyên liệu.

 Ngoài công tác thu mua và lưu trữ, một nguyên tắc cơ bản mà nhà sản xuất

phải tuân thủ là luôn luôn đảm bảo nguyên liệu được lưu trữ trong một thời

gian ngắn nhất có thể. Điều đó có nghĩa là lịch trình sản xuất và thu mua

phải phù hợp, hệ thống lưu trữ và vận chuyển nguyên liệu phải tiện lợi cho

nguyên tắc nhập trước xuất trước.



2889



 Đối với công tác lập khẩu phần ăn chăn nuôi:



Đây là quá trình nghiên cứu sự phát triển sinh lý của vật nuôi nhằm xác định

một cách khoa học nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi qua từng giai đoạn sinh trưởng

nhất định. Đồng thời xác định chủng loại và số lượng cần thiết của từng loại nguyên

liệu trong cơ cấu 1 kg thức công nghiệp nhằm đảm bảo các chỉ tiêu dinh dưỡng cần

thiết. Công tác lập khẩu phần thức ăn cho vật nuôi phải được tiến hành một cách khoa

học, tuân thủ theo các tiêu chí sau:





Ngoài đảm bảo chất dinh dưỡng cần thiết cho vật nuôi qua từng giai đoạn

sinh trưởng, quá trình nghiên cứu lập khẩu phần thức ăn và cân bằng dinh

dưỡng cho vật nuôi phải hướng tới mục đích là tạo ra sản phẩm chăn nuôi

đảm bảo các điều kiện dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm và sinh thái



môi trường theo đúng qui định trong nước và quốc tế.

 Trong quá trình xây dựng khẩu phần thức ăn các nhà sản xuất cần phải lựa

chọn nguyên vật liệu phù hợp để chế biến thức ăn chăn nuôi với giá thành rẻ

nhất mà vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng và nhu cầu dinh dưỡng.

Ngoài việc xác định thành phần hoá học, giá trị dinh dưỡng của từng loại

nguyên liệu, nhà sản xuất phải nắm bắt giá cả và khả năng cung cấp từng

loại nguyên vật liệu, trên cơ sở đó chọn và phối chế từng loại nguyên liệu

cho phù hợp với giá cả, nguồn nguyên liệu tại địa phương.

 Khi lập khẩu phần cần phải quan tâm phối hợp các loại nguyên liệu gây

ngon miệng và phù hợp với từng loại gia súc, gia cầm. Điều đó có nghĩa là

ngoài việc nguyên liệu phải đảm bảo chất lượng tốt các nhà sản xuất phải

phối trộn chúng với một tỷ lệ hợp lý, phù hợp với khuyến cáo về tỷ lệ tối

thiểu và tối đa các nguyên liệu đầu vào. Bởi một thực tế cho thấy, nhiều loại

thức ăn chăn nuôi vẫn đảm bảo đầy đủ hàm lượng dinh dưỡng nhưng giá trị

dinh dưỡng không cao. Tức người sản xuất sử dụng một số nguyên liệu làm



2890



cho khả năng tiêu hoá vật nuôi kém, không chuyển hóa hết hàm lượng dinh

dưỡng chứa trong thức ăn.

2



Giải pháp cải tiến và xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị

Tùy thuộc vào qui mô sản xuất và năng lực tài chính mà mỗi doanh nghiệp đầu



tư cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị với qui mô và chất lượng khác nhau. Song đứng

trước thực trạng về máy móc thiết bị của các doanh nghiệp hiện nay, đòi hỏi các doanh

nghiệp và Nhà nước phải có bước cải tiến toàn diện nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát

triển theo hướng sau:

-



Ngoài nỗ lực của các doanh nghiệp, Nhà nước cần thiết phải có chính sách

khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện công tác di dời nhà máy ra

khỏi khu dân cư. Trong đó cần coi trọng chính sách hỗ trợ kinh phí di dời bằng

nguồn vốn tín dụng ưu đãi, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mua hoặc thuê

đất xây dựng nhà xưởng ở những nơi đã được qui hoạch. Tránh tình trạng gây ô

nhiểm môi trường sinh thái, đảm bảo nhà máy được xây dựng ở khu vực thuận



-



tiện cho quá trình vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm.

Các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi phối hợp với các đơn vị kinh tế khác,

thậm chí phối hợp với nông dân cùng đóng góp xây dựng hệ thống kho tàng, sân



-



phơi, đường xá, cầu cảng tại các khu vực sản xuất nguyên liệu.

Hiện nay máy móc thiết bị ngành chế biến thức ăn chăn nuôi còn lạc hậu so với

một số nước trong khu vực. Đặc biệt nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ

sức đầu tư silo bảo quản nguyên liệu làm cho chất lượng nguyên liệu khi đưa

vào chế biến không đảm bảo. Còn rất nhiều doanh nghiệp sản xuất thức ăn

không có phòng phân tích chất lượng nguyên liệu và thành phẩm. Do vậy trong

thời gian tới các doanh nghiệp thuộc nhóm này cần phải đầu tư thay đổi dây

chuyền sản xuất và máy móc thiết bị theo hướng hiện đại hóa. Xét về mặt hiệu

quả kinh tế thì đây là giải pháp có thể thực hiện được. Bởi một thực tế cho thấy

máy móc thuộc giai đoạn sản xuất như máy sấy, nghiền, trộn, băng chuyền

không đòi hỏi công nghệ cao, chính vì thế các doanh nghiệp có thể thuê gia



2891



công trong nước hoặc nhập từ Đài Loan, Trung Quốc với chi phí đầu tư rất rẻ.

Tuy nhiên đối với một số máy thiết bị đòi hỏi công nghệ cao như thiết bị ép

viên, thiết bị thí nghiệm và kiểm tra chất lượng, hệ thống silo lưu trữ các doanh

nghiệp nên nhập khẩu từ các nước có nền khoa học kỹ thuật phát triển bởi đây là

những thiết bị đòi hỏi tính chính xác cao, trực tiếp quyết định chất lượng sản

phẩm.

3



Giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến năng



suất, chất lượng sản xuất sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Chính vì thế các doanh nghiệp

và Nhà nước cần phải có chính sách phát triển nguồn nhân lực theo các giải pháp chính

sau:

-



Lực lượng lao động trực tiếp sản xuất phải không ngừng được đào tạo các kiến

thức chuyên môn về ngành chế biến thức ăn chăn nuôi. Bởi một thực tế cho thấy

sản phẩm chỉ đạt năng suất và chất lượng cao khi đội ngũ lao động trực tiếp nắm

và hiểu biết các qui trình công nghệ sản xuất, qui trình bảo quản nguyên liệu và

thành phẩm. Đặc biệt đối với cán bộ quản lý và nhân viên bộ phận marketing,

ngoài nắm vững kiến thức chuyên môn phải được đào tạo một cách chính thức

về công nghệ chế biến thức ăn, kiến thức về khoa học dinh dưỡng và kỹ thuật

chăn nuôi gia súc gia cầm. Tuy nhiên hệ thống các trường dạy nghề hiên nay

hầu như chưa đào tạo nguồn nhân lực cho ngành chế biến thức ăn chăn nuôi.

Một mặt do nhu cầu thị trường về nguồn nhân lực này là chưa đủ lớn nên quá

trình đào tạo không mang lại hiệu quả kinh tế, một mặt là do thiết bị và dây

chuyền sản xuất của mỗi doanh nghiệp có tính đặc thù khác nhau nên họ chỉ

trực tiếp tuyển dụng lao động phổ thông và tự đào tạo cho phù hợp với đặc điểm

doanh nghiệp. Như vậy quá trình đào tạo nguồn nhân lực chỉ mang tính manh

mún, chi phí cao nhưng kiến thức đào tạo rất hạn chế. Chính vì thế Hiệp hội các

doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi phải cần thiết phối hợp với các trường



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

×