1. Trang chủ >
  2. Tài Chính - Ngân Hàng >
  3. Ngân hàng - Tín dụng >

6 Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với thức ăn chăn nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.79 KB, 111 trang )


2898



Từ 5.000 – 30.000 tấn/năm

Từ 31.000-100.000 tấn/năm

Trên 100.000 tấn/năm



84

46

32



37,3

20

14



1.420.700

3.457.000

7.273.000

12.317.000



Số liệu của phòng TACN – Cục chăn nuôi

Theo ông Lê Bá Lịch, chủ tịch hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, hiện cả

nước có 225 nhà máy và xưởng sản xuất sản xuất chế biến thức ăn gia súc. Đa số

doanh nghiệp ít vốn, không có khả năng nhập khẩu nguyên liệu với khối lượng lớn,

thường phải cạnh tranh mua nguyên liệu trong nước và đẩy giá thành sản xuất lên cao.

Thị trường thức ăn chăn nuôi đang lưu hành và tồn tại nhiều loại sản phẩm kém chất

lượng, gây cản trở và khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước đối với sản phẩm thức

ăn chăn nuôi. Xét về kinh doanh, chế biến thức ăn chăn nuôi có nhiều lợi thế, như là độ

an toàn cao, tỷ suất lợi nhuận lớn và ổn định. Vì thế trong tương lai gần sẽ rất ít hoặc

hiếm có doanh nghiệp rút lui khỏi ngành, mà thay vào đó là sự xuất hiện nhiều doanh

nghiệp mới nhập ngành. Do đó, việc quản lý các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn

nuôi hiện nay nên theo hai hướng chính như sau:

-



Không nên cấp phép xây dựng mới một cách tràn làn, mà nên khuyến khích các

doanh nghiệp mở rộng năng lực chế biến. Hiện nay một số nước trong khu vực

như Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc mỗi nước chỉ tồn tại khoảng 30-50 doanh

nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, song đây là những doanh nghiệp hoặc những

tập đoàn sản xuất có qui mô lớn, mỗi doanh nghiệp chiếm một khúc thị trường

nhất định. Và một kinh nghiệm cho thấy, việc hạn chế số lượng các doanh

nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi sẽ giúp Nhà nước có thể can thiệp và ổn định

thị trường nguyên liệu, thị trường sản phẩm thức ăn chăn nuôi một cách nhanh

chóng và hiệu quả hơn.



-



Cần công bố thông tin rộng rãi về năng lực hiện tại của các khu vực, tình trạng

khai thác công suất của các nhà máy. Những nhà đầu tư tương lai sẽ căn cứ vào

những thông tin này để quyết định đầu tư hay rút lui.



2899



-



Thị trường thức ăn chăn nuôi khu vực Miền Đông Nam Bộ đang có xu thế bão

hòa, trong khi đó thị trường khu vực Đồng bằng Sông Hồng, Trung Du Miền

Bắc đang được không ngừng mở rộng. Một mặt do mức độ công nghiệp hóa

trong chăn nuôi ở khu vực này đang ở mức thấp, một mặt do qui hoạch ngành

chăn nuôi đang có xu hướng mở rộng cơ cấu về phía Bắc. Chính vì thế trong

thời gian tới nếu có cấp phép xây dựng hoặc mở rộng qui mô cho các doanh

nghiệp chỉ nên tập trung và ưu tiên cho khu vực miền Bắc, hạn chế hoặc tạm

ngưng cấp phép đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực Miền Đông Nam Bộ.



-



Không nên cấp phép xây dựng mới, thậm chí mở rộng năng lực sản xuất cho các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi đặc điểm của ngành sản xuất thức

ăn chăn nuôi là dây chuyền công nghệ sản xuất đơn giản, vốn đầu tư không lớn

nên rất phù hợp với năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Việc

hạn chế các doanh nghiệp nước ngoài là một biện pháp bảo vệ các doanh nghiệp

trong nước trước sức ép cạnh tranh, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh của

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.



3.6.2 Giải pháp kiểm soát và bình ổn giá thức ăn chăn nuôi

Giá thức ăn chăn nuôi ở nước ta hiện nay đang ở mức cao hơn so sới các nước

trong khu vực từ 15%-30%. Trong bối cảnh đó, nhiều nhà máy chế biến thức ăn chăn

nuôi lại tăng giá bán sản phẩm. Giải thích nguyên nhân trên, nhiều chuyên gia kinh

cho rằng, các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi tăng giá là nhằm mục đích bù lại

các khoản thiệt hại do dịch cúm gia cầm gây nên. Tuy nhiên việc giải thích đó cũng

không hoàn toàn có cơ sở vì các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau về giá. Quy luật

cạnh tranh hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân trên cơ sở giá thị trường. Ngày nay

rất ít thấy đơn phương một doanh nghiệp nào tăng giá. Nhiều khi chạy theo giá mà

các doanh nghiệp còn giảm chất lượng.

Ngoài ra do giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong và ngoài nước tăng cao,

cộng với một số yếu tố khác cũng tăng giá, như xăng, dầu, nguyên liệu nhựa... Tất cả



28100



đã tác động trực tiếp làm tăng chi phí chế biến thức ăn chăn nuôi, do đó các doanh

nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi đều đồng loạt tăng giá bán.

Ở một khía cạnh nào đó, giá thức ăn chăn nuôi tăng giá là hợp lý, tuy nhiên để

khôi phục đàn gia cầm trong nước, ngoài các biện pháp tiêu độc vệ sinh chuồng trại,

chuẩn bị con giống tốt..., Nhà nước đang có chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi

cũng như các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. Thế nhưng việc các doanh nghiệp

liên tục tăng giá do giá nguyên liệu tăng trong bối cảnh dịch cúm gia cầm vừa tạm lắng

dễ làm cho dư luận đánh giá hành động này đi ngược lại với các biện pháp khuyến

khích người dân chăn nuôi trở lại. Đặc biệt, trong bối cảnh gia nhập AFTA và WTO

đến gần, hàng hoá chăn nuôi trong nước cần phải có đủ sức để cạnh tranh với các đối

thủ của khu vực. Mong muốn kiểm soát giá nhưng rất khó thực hiện bởi thức ăn chăn

nuôi có tính dị biệt rất cao. Để thực hiện chức năng kiểm soát giá thì tốt hơn là kiểm

soát giá nguyên liệu trong những thời điểm nhạy cảm.

3.6.3 Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về kiểm tra, kiểm soát chất lượng

nguyên liệu và sản phẩm thức ăn chăn nuôi

Thời gian gần đây hầu hết các doanh nghiệp sản xuất chất lượng đều vi phạm

các qui định về chỉ tiêu chất lượng thức ăn chăn nuôi. Theo kết quả lấy mẫu và kiểm

tra của một số ngành chức năng, nhiều doanh nghiệp đã vi phạm qui chế nhãn mác,

thành phần dinh dưỡng bị sụt so với chỉ tiêu đăng ký hoặc không ghi đầy đủ các thông

tin về công bố chất lượng trên bao bì. Hầu hết các chỉ tiêu chất lượng không đạt yêu

cầu chỉ có thể nhận biết khi thông qua kết quả thí nghiệm, điều đó có nghĩa là người

tiêu dùng không hề nhận biết được rằng chất lượng sản phẩm mà mình sử dụng có đạt

yêu cầu chất lượng hay không, hoặc chất lượng sản phẩm đạt đết mức nào và thiệt hại

kinh tế khi sử dụng sản phẩm kém chất lượng là một vấn đề còn mơ hồ không thể xác

định được.

Đứng trước tình trạng này, nhiều người đã đặt vấn đề là trách nhiệm của các cơ

quan quản lý Nhà nước tới đâu, và có giải pháp nào hữu hiệu để hạn chế tình trạng thức



28101



ăn chăn nuôi kém chất lượng còn lưu thông, gây thiệt hại trực tiếp cho người chăn

nuôi, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sức khoẻ cộng đồng.

Theo nghị định 15/Cp ngày 19/03/1996 về việc quản lý thức ăn chăn nuôi, Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm kiểm tra và quản lý chất lượng thức ăn

chăn nuôi trong phạm vi cả nước, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực thuộc

và UBND các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm trực triếp việc kiểm tra và quản lý chất

lượng thức ăn chăn nuôi trên địa bàn quản lý.

Tuy nhiên công tác quản lý đến nay vẫn còn nhiều bất cập, việc phân cấp và

phối hợp giữa các cơ quan chức năng vẫn chưa đồng bộ dẫn đến tình trạng chồng chéo

quyền hạn, trách nhiệm không rõ ràng trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm thức

ăn chăn nuôi. Hiện nay tại các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ có từ 3-5

thanh tra viên nông nghiệp song phải thực hiện kiểm tra thuốc trừ sâu, phân bón, thức

ăn… Và con số này là quá mỏng. Do vậy quá trình thanh tra, kiểm tra lấy mẫu phân

tích chỉ thực hiện theo đợt và mang tính chiếu lệ, chưa có biện pháp xử lý triệt để các

sai phạm.

Đứng trước tình hình trên, thiết nghĩ Chính phủ và các cơ quan chức năng, cụ

thể là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phải có qui chế cụ thể, phân cấp và

giao trách nhiệm một các rõ ràng trong công tác quản lý chất lượng thức ăn chăn nuôi.

Từ những bất cập trên Nhà nước có thể đưa ra một số giải pháp chính trong công tác

quản lý nhà nước đối với chất lượng thức ăn chăn nuôi như sau:

-



Với những địa bàn tỉnh, thành phố rộng lớn thì cần phân cấp xuống tận địa bàn

trong việc giám sát thức ăn chăn nuôi. Cần có quy chế rõ ràng phân cấp quản lý.

Theo ý kiến đông đảo của cán bộ quản lý thức ăn chăn nuôi, tốt nhất công tác

quản lý chất lượng thức ăn chăn nuôi nên phân cấp đến cấp huyên, tức phòng

chăn nuôi mỗi huyện phải có trách nhiệm kiểm tra, nếu thu giữ được hàng nghi

giả, kém chất lượng thì phải tiến hành lấy mẫu đem đến phòng thí nghiệm thuộc

sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh để phân tích, giám định. Công



28102



việc kiểm tra phải được thực hiện tại phòng thí nghiệm hiện đại. Các mẫu kiểm

tra đều phải “mã hoá". Tức là không cho biết tên sản phẩm, đơn vị sản xuất mà

đánh số ngẫu nhiên, khi có kết quả về mới ráp nối để biết được tên đơn vị, tên

sản phẩm. Việc làm tuyệt mật này sẽ tránh được sự tiêu cực nhằm thay đổi kết

quả kiểm tra. Nếu kết quả kiểm tra phát hiện ra sản phẩm kém chất lượng, Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải trực tiếp xử lý một cách triệt để, nếu

sai phạm lớn, có dấu hiệu của hành vi gian lận hoặc gây hiệu quả nghiêm trọng

đến tình hình phát triển kinh tế xã hội thì phải chuyển hoặc xin ý kiến Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn xử lý.

-



Đi đôi với công tác phân cấp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần gấp

rút trang bị phòng thí nghiệm, nguồn nhân lực cho các Sở Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn trực thuộc. Hiện nay cơ sở hạ tầng và cán bộ quản lý tại các sở

là quá mỏng nên việc kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi chưa đáp ứng nhu

cầu. Hiện tại, tại các địa phương, thống kê chỉ có 20/60 tỉnh, thành trong Sở

Nông Nghiệp và Phát Triển Chăn Nuôi có Phòng Chăn nuôi, đó là chưa nói đến

cấp huyện. Con số này quả là cực kỳ khiêm tốn so với sự phát triển mạnh mẽ

của các các doanh nghiệp. Phòng thí nghiệm và phân tích mẫu chỉ tập trung chủ

yếu ở các Viện nghiên cứu, hoặc các sở trực thuộc thành phố lớn do vậy quá

trình phân tích thường gặp bất cập. Có những mẫu thức ăn thực tế có thể tốt,

nhưng do quá trình đợi phân tích lại xuống cấp trầm trọng, hoặc là kết quả phân

tích quá chậm dẫn đến tình trạng xử lý không kịp thời, bị mua chuộc và làm lệch

kết quả kiểm tra.



-



Nguyên liệu là một trong những nguyên nhân chính làm cho chất lượng sản

phẩm thức ăn chăn nuôi kém chất lượng, song một thực tế hiện nay là công tác

kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu hầu như đang bỏ ngõ. Chính vì thế nhiều

doanh nghiệp đã lợi dụng sự bất cập và lơi lỏng trong công tác kiểm tra chất

lượng nguyên liệu nên đã cố tình thu mua và sử dụng nguyên liệu giá rẻ, không



28103



đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng qui định. Thậm chí có những doanh nghiệp sử

dụng một số nguyên liệu vượt quá tỷ lệ cho phép, sử dụng các chất kháng sinh

hoặc hooc môn tăng trưởng bị cấm. Như vậy kết hợp với công tác quản lý chất

lượng sản phẩm, Nhà nước cần phải đưa ra qui chế kiểm tra chất lượng nguyên

liệu một cách chặt chẻ từ khâu thu mua, xử lý, lưu trử đến khâu định lượng

trước khi đưa vào sản xuất.

7



Một số kiến nghị

Các giải pháp đưa ra với mục đích khắc phục những mặt khó khăn và phát huy



tối đa lợi thế các mặt nội tại của ngành phục vụ cho chiến lược phát triển ngành chế

biến thức ăn chăn nuôi từ nay đến 2020. Về cơ bản, các giải pháp phát triển được đưa

ra đều có tính thực tiễn cao, phù hợp với đặc điểm và điều kiện kinh tế xã hội Việt

Nam, song để các giải pháp được áp dụng một cách thực thi bản thân đưa ra một số

kiến nghị như sau:

1

-



Đối với Nhà nước



Nội dung các giải pháp vĩ mô chủ yếu tập trung vào các chính sách kinh tế vĩ mô hỗ trợ

cho sự phát triển ngành, trong đó qui hoạch vùng nguyên liệu, xây dựng cơ sở hạ tầng

là yêu cầu cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên quá trình thực hiện lại đòi hỏi thời gian và

kinh phí lớn, chính vì thế Chính phủ phải gấp rút triển khai một cách đồng bộ, phải có

kế hoạch thực hiện giải pháp cho từng giai đoạn cụ thể, phù hợp với mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội.



-



Chỉ đạo cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xúc tiến công tác nghiên cứu

khoa học trong thời gia tới là : nghiên cứu phát triển và sử dụng các nguồn thức ăn mới

bao gồm nguồn thức ăn giàu năng lượng, khoáng và protein. Nghiên cứu khẩu phần

cân bằng dinh dưỡng để cho sản phẩm thịt, trứng, sửa đạt chất lượng cao, không chứa

các chất kháng sinh, hocmon gây ảnh hướng đến sức khoẻ công đồng. Nghiên cứu các

giải pháp khoa học công nghệ về dinh dưỡng, thức ăn chăn nuôi với mục đích giảm giá



28104



thành thức ăn trong sản xuất chăn nuôi, hạn chế chất thải như nitơ, phốt pho gây ô

nhiễm môi trường sinh thái.

2



Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các doanh nghiệp

Hiện nay chỉ một số doanh nghiệp lớn trong ngành chế biến thức ăn chăn nuôi là



xác định được chiến lược sản xuất kinh một cách cụ thể và đồng bộ. Còn hầu hết các

doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ chỉ hoạt động một cách manh mún, mục tiêu sản

xuất kinh doanh chỉ vì mục đính kinh tế trước mắt, thiếu tính đồng bộ. Do vậy bộ phải

sự phối hợp và chỉ đạo các doanh nghiệp trong ngành vận dụng các giải pháp phát triển

phù hợp, tạo nên sự phát triển bền vững ngành chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước.

Các giải pháp phát triển đưa ra trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển ổn định, tuy

nhiên chiến lược phát triển ngành là mang tính lâu dài nên không thể tránh khỏi sự ảnh

hưởng của các biến động kinh tế, chính trị trong và ngoài nước. Đặc biệt trong bối cảnh

hiện nay, do ảnh hưởng của giá cả xăng dầu và dịch cúm gia cầm đang gây cản trở rất

lớn đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội nói chung, ngành sản xuất chăn nuôi và

ngành chế biến thức ăn chăn nuôi nói riêng. Chính vì thế việc xây dựng và áp dụng các

giải pháp phát triển ngành đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp sản

xuất thức ăn chăn nuôi phải có các phản ứng nhanh, linh động đối với sự tác động của

các nhân tố bên ngoài.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

×