Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.79 KB, 111 trang )
2823
dừa…). Trong đó khô đỗ tương và bột cá là hai nguyên liệu phổ biến thường được sử
dụng và chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các nguyên liệu cùng loại (khô đỗ tương chiếm
10%, bột cá chiếm 5% trên trọng lượng nguyên liệu đầu vào).
Nhóm nguyên liệu cung cấp khoáng chất và vitamin: gồm các nguyên liệu cung cấp
chủ yếu khoáng chất trong trong thức ăn gồm khoáng đa lượng (canxi, photpho..),
khoáng vi lượng và một số vitamin A, B, C. Các chất này thường chứa nhiều trong bột
xương, bột vỏ sò, mai mực có thể giúp bổ sung vào thành phần thức ăn gia súc.
Nhóm cung cấp axit amin: gồm các chất giàu axit amin bổ sung vào khẩu phần ăn vật
nuôi như lyzin, methionin…Ở Việt Nam và các nước đang phát triển, hai loại axít này
thường rất hiếm và đắt tiền nên thường người ta có thể sử dụng một số thức ăn giàu
protein từ động vật để bổ sung vào khẩu phần ăn vật nuôi.
Ngoài ra còn một số nguyên liệu khác cung cấp các chất xúc tác tiêu hóa, gây ngon
miệng… chiếm một tỷ trọng nhỏ trong thành phần thức ăn gia súc. Việc sử dụng các
nguyên liệu này tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp, hay từng loại thức ăn cụ thể mà
doanh nghiệp thấy cần thiết bổ sung vào thanh phần dinh dưỡng thức ăn gia súc.
1.4.2 Khách hàng và hành vi tiêu dùng:
Củng như sản phẩm của các ngành công nghiệp khác, việc nhận biết và xác định
khách hàng sử dụng sản phẩm thức ăn chăn nuôi là một trong những yếu tố quan trọng
và cần thiết nhất đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi. Bởi
việc xác định khách hàng, đối tượng mua, đối tượng sử dụng sản phẩm sẽ giúp cho nhà
sản xuất nắm được các đặc tính sản phẩm mà thị trường yêu cầu.
Đối với các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, ngoài yêu cầu phải đảm
bảo một số chỉ tiêu kỹ thuật chuyên ngành, yêu cầu về quản lý Nhà nước đã được qui
định, việc xác định khác hàng và các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của
người tiêu dùng hoặc mong muốn của người sử dụng thức ăn chăn nuôi đang là một
vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm rất lớn. Theo các chuyên gia kinh tế trong
2824
ngành chế biến thức ăn chăn nuôi, có thể xác định khách hàng và một số yếu tố mang
tính đặc trưng ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng như sau:
Cơ cấu khách hàng:
o Khách hàng là các trang trại chăn nuôi mang tính công nghiệp: đây là nhóm
khách hàng có số lượng vật nuôi tương đối lớn, có đầy đủ cán bộ kỹ thuật
được trang bị đầy đủ kiến thức về khoa học dinh dưỡng và kỹ thuật chăn
nuôi, có điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất nên việc lựa chọn sản phẩm
thức ăn chăn nuôi được thực hiện một cách chủ động và có cơ sở khoa học.
Sản phẩm sử dụng cho đối tượng này chủ yếu là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh
và được cung cấp trực tiếp từ các doanh nghiệp sản xuất.
o Khách hàng là các hộ chăn nuôi cá thể: đây là nhóm khách hàng có thu nhập
thấp, kiến thức hiểu biết về chăn nuôi là rất hạn chế chính vì thế việc lựa
chọn sản phẩm thức ăn chăn nuôi đa số là dựa vào cảm tính và kinh nghiệm,
việc chăn nuôi chủ yếu là tạo thêm nguồn thu nhập và tận dụng thức ăn từ
phụ phẩm ngành nông nghiệp nên họ có xu thế sử dụng thức ăn đậm đặc.
Chính vì thế mà việc cung cấp thông tin về sản phẩm, hướng dẫn cách sử
dụng và kỹ thuật chăn nuôi là một vấn đề cần quan tâm đối với các doanh
nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi.
o Khách hàng là các đại lý kinh doanh thức ăn gia súc: đây là nhóm khách
hàng bao gồm các tổ chức, cá nhân kinh doanh thức ăn gia súc để bán lại cho
người chăn nuôi trực tiếp. Họ là những người có nguồn vốn lớn, có đầy đủ
cơ sở hạ tầng để lưu trữ thức ăn với khối lượng lớn. Thông thường những đại
lý thức ăn chăn nuôi chỉ kinh doanh một vài loại thức ăn mà thị trường ưa
chuộng. Lợi nhuận thu được có thể thông qua chính sách chiết khấu, hoa
hồng của doanh nghiệp sản xuất hoặc bán chênh lệch giá sản phẩm cho
khách hàng. Đối tượng khách hàng chủ yếu là người chăn nuôi có qui mô
2825
vừa và nhỏ (hoặc các đại lý cấp dưới) không có điều kiện về tài chính và
công cụ lưu trữ để mua với khối lượng lớn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng:
o Người quyết định mua hàng không phải là người tiêu dùng trực tiếp, do vậy
việc đánh giá chất lượng sản phẩm chỉ có thể thực hiện thông qua quá trình
phân tích các chỉ tiêu chất lượng. Công việc này rất khó thực hiện do chi phí
cao và ảnh hưởng đến thời gian sản xuất. Chính vì thế mà chất lượng sản
phẩm thường được khách hàng đánh giá qua khả năng phát triển của vật nuôi
hoặc hiệu quả kinh doanh qua một chu kỳ sản xuất. Nếu qua một giai đoạn
sử dụng sản phẩm mà cảm thấy có hiệu quả thì người chăn nuôi tự động sẽ
trở thành khách hàng trung thành của sản phẩm và rất ít khi thay đổi. Và
ngược lại, vật nuôi là một phần tài sản của người chăn nuôi, chính vì thế nếu
thức ăn có ảnh hưởng không tốt đến vật nuôi hoặc không mang lại hiệu quả
kinh tế cao thì người chăn nuôi sẽ có phản ứng rất gay gắt và có thể từ bỏ
sản phẩm ngay lập tức.
o Mục đích của người chăn nuôi xét cho cùng là lợi nhuận, chính vì thế mà đa
số người tiêu dùng mong muốn mua được một sản phẩm giá rẻ, phù hợp với
túi tiền nhưng lại đảm bảo yêu cầu về chất lượng và hiệu quả chăn nuôi.
o Do điều kiện về cơ sở vật chất không đảm bảo cho quá trình lưu trữ thức ăn,
hoặc vấn đề về tài chính không cho phép nên hầu hết người chăn nuôi chỉ có
thể mua một số lượng thức ăn vừa đủ cho một giai đoạn ngắn. Chính vì thế
mà hệ thống phân phối và khâu lưu thông rất được khách hàng lưu ý. Các
doanh nghiệp phải đảm bảo nguồn hàng đều đặn và ổn định đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong mọi thời điểm, đồng thời chất lượng phải đảm bảo trong quá
trình lưu thông và lưu trữ.
Từ những về thông tin về hành vi tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm
thức ăn chăn nuôi, mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một phân khúc thị
2826
trường hợp lý, hoặc một dãy sản phẩm cụ thể phục vụ cho từng loại vật nuôi sao cho
phù hợp với tiềm năng và qui mô sản xuất của doanh nghiệp.
1.4.3 Thiết bị và dây chuyền công nghệ:
Chế biến thức ăn chăn nuôi là một ngành công nghiệp phức tạp, mức độ ứng
dụng khoa học kỹ thuật cao và luôn được cải tiến. Sản phẩm thức ăn chăn nuôi đa
dạng, đòi hỏi phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an
toàn thực phẩm. Chính vì thế móc thiết bị và dây chuyền sản xuất phải đáp ứng một số
tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên ngành qui định.
Hiện nay, ngành chế biến TACN có hai dây chuyền công nghệ sản xuất thức ăn
là dây chuyền sản xuất thức ăn dạng bột và thức ăn dạng viên. Tuy nhiên, do một số
công đoạn và đặc điểm sản xuất giống nhau nên hai dây chuyền công nghệ đều có một
số máy móc thiết bị giống nhau tương ứng với từng công đoạn sản xuất, cụ thể:
Giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu đưa vào sản xuất: thông thường nguyên liệu mua vào
chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp đang ở dạng thô và chưa qua xử lý. Đặc biệt với khí
hậu nhiệt đới ẩm thấp vào mùa thu hoạch có thể làm cho nguyên liệu rất dễ bị ẩm, mốc.
Để đảm bảo nguyên liệu đạt chất lượng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải trải qua giai
đoạn làm sạch, sấy khô nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất và lưu trữ. Với những
yêu cầu trên, hầu hết các doanh nghiệp đều phải trang bị hệ thống làm sạch (máy sàng,
thổi bụi), máy sấy nguyên liệu, hệ thống kho tàng hoặc silo lưu trữ.
Giai đoạn lập khẩu phần thức ăn và định lượng nguyên liệu: căn cứ vào kế hoạch
sản xuất kinh doanh, cán bộ kỹ thuật tiến hành lập khẩu phần cho từng loại thức ăn, lập
công thức chế biến thức ăn chăn nuôi và xác định khối lượng cần thiết của từng loại
thức ăn, trên cơ sở đó tính toán số lượng và chủng loại nguyên liệu cần thiết đưa vào
sản xuất. Trang thiết bị cho giai đoạn này chủ yếu thiết bị thí nghiệm và kiểm tra chất
lượng nguyên liệu, hệ thống máy vi tính, phần mềm công nghệ thông tin cho công tác
lập khẩu phần và công thức chế biến thức ăn chăn nuôi.
2827
Giai đoạn sản xuất: đây là giai đoạn nguyên liệu được nghiền, trộn và chế biến theo tỷ
lệ qui định. Tuỳ thuộc vào thành phần dinh dưỡng của thức ăn cần thiết sản xuất, cán
bộ kỹ thuật sẽ xác định chủng loại, số lượng vật liệu cần thiết theo công thức sản xuất
thức ăn để tiến hành pha chế, nghiền, trộn. Trang thiết bị cần thiết cho giai đoạn này
chủ yếu là máy cân, máy nghiền, máy trộn, hệ thống băng tải phục vụ cho công tác chế
biến.
Giai đoạn hoàn thành: sau khi giai đoạn sản xuất sản phẩm đã hoàn tất, cán bộ chuyên
môn sẽ tiến hành lấy mẫu, kiểm tra chất lượng thành phẩm và đóng gói đưa sản phẩm
tiêu thụ hoặc lưu trữ trong điều kiện tốt nhất. Trang thiết bị cho giai đoạn này là hệ
thống máy đóng gói, hệ thống máy thí nghiệm và kiểm tra chất lượng thành phẩm, hệ
thống lưu trữ sản phẩm.
Do đặc tính kỹ thuật và đặc tính sản phẩm khác nhau nên hai dây chuyền công nghệ có
những công đoạn sản xuất khác biệt. Đối với dây chuyền sản xuất sản phẩm dạng viên,
sau khi trải qua công đoạn nghiền, trộn sản phẩm phải được pha chế với chất kết dính
nhằm tạo sự liên kết và ép thành viên mới chuyển qua công đoạn đóng gói. Chính vì
thế dây chuyền sản xuất sản phẩm dạng bột phải trang bị thêm hệ thống máy ép viên.
1.4.4 Nguồn nhân lực:
Cũng như các ngành sản xuất khác, công nhân lao động trực tiếp, chuyên viên kỹ thuật
chuyên ngành, cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp, đội ngũ nhân viên lao động
gián tiếp… là lực lượng lao động không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên mỗi ngành khác nhau đều có nguồn nhân lực khác nhau tương ứng với tính
đặc thù của mỗi ngành. Đối với ngành chế biến thức chăn nuôi, nguồn nhân lực có
những đặc trưng sau:
Lực lượng lao động là công nhân sản xuất trực tiếp: đây là lực lượng lao động đông
nhất trong cơ cấu nhân lực tại các doanh nghiệp, được công ty trực tiếp tuyển dụng
phục vụ cho các công đoạn sản xuất trực tiếp. Hầu hết đội ngũ lao động trực tiếp là
công nhân lao động phổ thông và chưa được đào tạo chính qui. Do vậy tuỳ thuộc vào vị
2828
trí công việc mà mỗi doanh nghiệp có hình thức tuyển dụng và đào tạo tay nghề phù
hợp với yêu cầu sản xuất tại đơn vị.
Lực lượng lao động là đội ngũ nhân viên lao động gián tiếp: đây chủ yếu là cán bộ
công nhân viên thuộc các phòng ban chức năng phục vụ cho công tác quản lý điều
hành doanh nghiệp, đội ngũ nhân viên bán hàng và marketing. Lực lượng này được
công ty trực tiếp tuyển dụng cho từng vị trí công tác theo đúng chuyên môn nghiệp vụ
đã được đào tạo.
Lực lượng lao động là các chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư nông nghiệp, kỹ sư chăn
nuôi: đây là lực lượng lao động được đào tạo chuyên ngành về chăn nuôi hoặc dinh
dưỡng. Đòi hỏi phải có đủ năng lực tiếp thu về khoa học dinh dưỡng, có năng lực thực
hiện công việc thí nghiệm và kiểm tra các qui trình sản xuất đảm bảo nguyên vật liệu
mua vào đạt chất lượng. Lập khẩu phần và công thức ăn đảm bảo sản phẩm đầy đủ
dinh dưỡng và giá thành thấp nhất.
Lực lượng lao động là các chuyên gia đầu ngành nghiên cứu dinh dưỡng: đây là
nguồn nhân lực không thể thiếu đối với ngành chế biến thức chăn nuôi. Hiện nay
nguồn nhân lực nghiên cứu về dinh dưỡng hầu hết thuộc các viện nghiên cứu và trường
đại học. Họ là các chuyên gia nguyên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho vật nuôi qua các
giai đoạn phát triển sinh lý. Đồng thời nghiên cứu khẩu phần cân bằng các chất dinh
dưỡng để sản phẩm chăn nuôi đạt chất lượng cao, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ
môi trường sinh thái.
1.4.5 Vai trò quản lý Nhà nước đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi:
Cũng như các hàng hoá khác, nhà nước thống nhất quản lý về sản xuất, kinh
doanh, xuất khẩu, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người sản xuất, người kinh doanh và người sử dụng thức ăn chăn nuôi. Việc quản lý
thức ăn chăn nuôi được thực hiện theo nghị định 15/CP ngày 19/03/1996 của Chính
phủ, cụ thể:
2829
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy sản trong phạm vi chức năng, quyền
hạn của mình thực hiện quản lý Nhà nước về thức ăn chăn nuôi trong phạm vi cả nước
và có trách nhiệm:
-
Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích sản xuất, nâng
cao chất lượng thức ăn chăn nuôi.
-
Quản lý Nhà nước về sản xuất và kinh doanh thức ăn chăn nuôi. Xây dựng tiêu
chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi để cơ quan có thẩm quyền ban hành tiêu
chuẩn Việt Nam.
-
Kiểm tra, thanh tra và kiểm nghiệm chất lượng thức ăn chăn nuôi. Cấp giấy
chứng nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi theo thẩm quyền của mình.
-
Công bố danh mục thức ăn và nguyên liệu cấm sản xuất.
-
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ quy hoạch, kế hoạch sản
xuất, chế biến thức ăn. Ban hành các văn bản hướng dẫn các ngành, địa phương
và các cơ sở quản lý thức ăn chăn nuôi.
Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức quản lý thức ăn chăn
nuôi trong phạm vi địa phương theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn. Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc quản lý Nhà nước về thức ăn
chăn nuôi. Kiểm tra và xử lý các vi phạm về quản lý thức ăn chăn nuôi tại địa phương
trong phạm vi thẩm quyền. Quyết định cấp hoặc thu hồi giấy phép sản xuất kinh doanh
thức ăn trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Ở qui mô Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách
nhiệm kiểm tra và quản lý chất lượng thức ăn trong phạm vi cả nước. Đối với các tỉnh
và thành phố trực thuôc Trung ương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh,
UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chất lượng thức ăn chăn
nuôi trên địa bàn quản lý. Việc tổ chức và theo dõi chất lượng thức ăn chăn nuôi sản
xuất và lưu thông thị trường được quản lý như sau:
-
Tổ chức lấy mẫu phân tích, kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi 02 lần/năm.
2830
-
Tổ chức kiểm tra đột xuất khi cần thiết khi có sự đồng ý của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.
-
Nội dung kiểm tra gồm: kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất xưởng và xuất xứ,
kiểm tra vệ sinh thức ăn chăn nuôi, vệ sinh môi trường sản xuất và bảo quản
thức ăn.
-
Các chỉ tiêu kiểm tra: theo QĐ96/2001/BNN ngày 09/09/2001 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, các chỉ tiêu kiểm tra chất lượng sản phẩm thức
ăn chăn nuôi bao gồm:
o Kiểm tra việc công bố tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các nhà sản xuất
so với tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành và qui định kỹ thuật đã quy
định. Kiểm tra các chỉ tiêu kỹ thuật tối thiểu bắt buộc phải công bố khi xây
dựng tiêu chuẩn cơ sở đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn quy định theo QĐ 113/2001/QĐ/BNN ngày
28/11/2001.3 Kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm so với chỉ tiêu chất
lượng mà doanh nghiệp đã công bố.
o Ngoài ra, để đảm bảo cho việc chăn nuôi đạt hiệu quả, đảm bảo cho sức khoẻ
vật nuôi và con người, sản phẩm thức ăn chăn nuôi còn phải được khống chế
hàm lượng tối đa độc tố nấm mốc Aflatoxin, hàm lượng tối đa các nguyên tố
khoáng và kim loại nặng có trong 1kg thức ăn chăn nuôi. Hoặc qui định về
hàm lượng tối thiểu các loại vitamin có trong thức ăn chăn nuôi.
o Sau khi hàng hoá được công bố tiêu chuẩn chất lượng, doanh nghiệp phải
đảm bảo điều kiện sản xuất, kinh doanh để chất lượng luôn được ổn định
trong quá trình lưu thông đáp ứng tiêu chuẩn đã công bố về mọi nội dung.
Để cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cần thiết để nhận biết hàng
hoá, làm căn cứ cho quyết định lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng hàng hóa, các
cơ quan chức năng kiểm tra giám sát, các chỉ tiêu chất lượng chủ yếu của sản
phẩm thức ăn chăn nuôi mà doanh nghiệp đã công bố bắt buộc doanh nghiệp
2831
phải ghi trên nhãn hàng hóa theo QĐ 178/1999/QĐ-TTg của Thủ Tướng
Chính phủ.
o Việc kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi phải thực hiện theo các bước và
nội dung đã qui định. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ kiểm tra định kỳ, lấy
mẫu và phân tích chất lượng sản phẩm tại phòng thí nghiệm chuyên ngành.
Trên cơ sở đó kiểm tra việc ghi chép các thông số, chỉ tiêu kỹ thuật trên bao
bì sản phẩm có đầy đủ và đúng với chỉ tiêu qui định hay không. So sánh kết
quả phân tích với chỉ tiêu chất lượng mà doanh nghiệp đã công bố để kết
luận về chất lượng sản phẩm.
Với những đặc điểm trên, nguồn nhân lực đóng một vai trò quan trọng và quyết
định sự phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi. Đòi hỏi các doanh nghiệp, cơ
quan quản lý Nhà nước, các viện nghiên cứu và trường đại học phải có kế hoạch đào
tạo một cách đồng bộ, liên tục. Đảm bảo cung cấp đủ nguồn nhân lực có chất lượng
cao phù hợp với nhu cầu phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi.
1.5 Khái niệm về thị trường thức ăn chăn nuôi
Khái niệm về thị trường được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo Tiến
sĩ Nguyễn Thanh Hiền (Trung tâm phát triển Nông thôn miền Trung, Đại Học Nông
Lâm Huế), “Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để trao đổi hàng hóa
và dịch vụ. Theo nghĩa hẹp, thị trường là một cái chợ có địa điểm nhất định để trao đổi
hàng hóa và dịch vụ.”
Thị trường cũng có thể được xác định bằng nhu cầu về sản phẩm hoặc dịch vụ.
Theo định nghĩa này, thị trường là một nhóm người có nhu cầu và sẵn sàng trả tiền để
thỏa mãn nhu cầu đó.
Đứng trên góc độ đó có thể hiểu, có thể khái niệm rằng thị trường thức ăn chăn
nuôi gồm những người chăn nuôi và tất cả các tổ chức, doanh nghiệp tham gia vào việc
sản xuất hoặc mua bán thức ăn chăn nuôi nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn thức ăn cho
vật nuôi của những người chăn nuôi.
2832
1.6 Phân loại thị trường thức ăn chăn nuôi:
Phân loại thị trường là việc phân chia thị trường theo các tiêu thức khác nhau để
phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển thị trường. Các doanh nghiệp quan
niệm, “Thị trường bao gồm tất cả khách hàng tiềm ẩn cùng có nhu cầu hay mong muốn
cụthể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn
đó”. Do vậy, người kinh doanh sản phẩm thức ăn chăn nuôi, phải xác định được những
nhóm khách hàng mình đang phục vụ và những khách hàng doanh nghiệp sẽ vươn tới.
Như đã nói ở trên, thịtrường của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm thức
ăn chăn nuôi là những người chăn nuôi. Nhưng không phải tất cả những khách hàng
này doanh nghiệp đều phục vụ. Với tiềm lực của mình doanh nghiệp sẽ xác định những
nhóm khách hàng sẽ cung cấp sản phẩm một cách tốt nhất hơn hẳn đối thủ cạnh tranh.
Căn cứ vào chức năng của các thành viên tham gia thị trường mà người ta chia thị
trường thành các loại sau:
-
Thị trường các yếu tố đầu vào (thị trường tư liệu sản xuất): Thị trường các yếu
tố đầu vào là tập hợp các cá nhân, tổ chức mua và bán tư liệu sản xuất đầu vào
-
cũng như dịch vụ nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất ra sản phẩm.
Thị trường người bán buôn và trung gian: Thị trường người bán buôn và trung
gian là tập hợp những cá nhân hay tổ chức mua hàng của người sản xuất và bán
-
lại cho người khác hoặc bán cho người tiêu dùng để kiếm lời.
Thị trường tiềm năng người tiêu dùng : là những doanh nghiệp chăn nuôi sử
dụng sản phẩm của các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. Người chăn nuôi sẽ
có ba yếu tố ảnh hưởng để tạo nên thị trường là : Sự quan tâm, thu nhập và cách
tiếp cận.
o Sự quan tâm: xuất phát từ nhu cầu muốn chăn nuôi dựa trên đặc điểm của
thị trường thức ăn chăn nuôi
o Thu nhập: Người chăn nuôi do phần lớn là nông dân, thu nhập thấp và
vốn sản xuất nhỏ lại phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất dài. Do vậy, lý do giá