Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.6 KB, 73 trang )
2
2
2
2
hè thì thời tiết nắng nóng, nhiệt độ lên cao gây ảnh hưởng tới khả năng sinh
trưởng, sức chống chịu bệnh tật của đàn gia súc, gia cầm. Ngoài ra nó còn gây
khó khăn cho việc bảo quản, chế biến nông sản, thức ăn chăn nuôi.
1.1.1.3. Điều kiện về đất đai
Đất đai có vai trò quan trọng đối với tất cả các ngành sản xuất, đặc bịêt
trong sản xuất nông nghiệp là tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Trong
những năm qua, công tác quản lý và sử dụng đất đai của xã đã đi vào nề nếp chặt
chẽ theo đúng quy định của Pháp luật.
Xã Nghĩa Lạc có tổng diện tích là 1122,8 ha, trong đó diện tích đất trồng
lúa, hoa màu là 603,3 ha (chiếm 53,73 %). Còn lại là đất chuyên dụng, đất ở, và
đất chưa sử dụng.
Diện tích đất của xã tương đối lớn, chủ yếu là đất thịt để trồng lúa, bên cạnh
đó xã còn nhiều đất bồi bãi, chưa được khai thác sử dụng, lại thường bị ngập mặn
nên dẫn đến năng suất cây trồng còn thấp, việc canh tác gặp nhiều khó khăn.
Cùng với sự gia tăng dân số, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông…nên diện
tích đất nông nghiệp có xu hướng ngày một giảm, đã ảnh hưởng đáng kể tới
ngành chăn nuôi
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của xã Nghĩa Lạc
1.1.2.1 Tình hình kinh tế
Xã Nghĩa Lạc là một xã nằm ở trung tâm huyện Nghĩa Hưng, cơ cấu
kinh tế đa dạng với nhiều ngành nghề, nhiều thành phần kinh tế: Công nghiệp
- Nông nghiệp - Dịch vụ.
Về sản xuất nông nghiệp: Giao khoán trực tiếp tới tay người dân, sản
xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu (chiếm khoảng 80% số hộ trong xã). Bên
cạnh đó ngành chăn nuôi cũng đang ngày phát triển mạnh mẽ gắn liền với sản
xuất nông nghiệp.
Về dịch vụ: Cùng với định hướng chuyển dịch cơ cấu từ sản xuất nông
nghiệp sang phát triển công nghiệp - dịch vụ, trong những năm gần đây trên
địa bàn xã ngành dịch vụ phát triển mạnh mẽ, tạo thêm công ăn việc làm và
góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Nhìn chung, kinh tế của xã đang trên đà phát triển. Tuy nhiên quy mô
sản xuất còn nhỏ, manh mún, chưa có kế hoạch phát triển chi tiết, dẫn đến
2
3
3
3
3
hiệu quả kinh tế còn chưa cao, đây cũng là hạn chế của xã. Đối với hộ sản
xuất nông nghiệp, thu nhập bình quân lương thực là 779 kg/người/năm, chăn
nuôi chủ yêú quy mô nhỏ lẻ, hộ gia đình chiếm đa số. Tổng thu nhập bình
quân trên đầu người cao.
Trong những năm gần đây, mức sống của nhân dân trong xã đã được nâng
lên rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm hẳn. Các hộ gia đình đã có phương tiện nghe
nhìn như: Tivi, đài, sách, báo…Đa số các hộ đã mua được xe máy và nhiều đồ
dùng đắt tiền. Bên cạnh đó các chính sách của Đảng và Nhà nước đã và đang
góp phần nâng cao, cải thiện đời sống của nhân dân như: chính sách vay vốn xây
dựng phát triển kinh tế trang trại, chính sách về giao thông – thủy lợi, chính sách
vay vốn học sinh, sinh viên…Đặc biệt trong những năm gần đây việc áp dụng
các tiến bộ khoa học vào thâm canh sản xuất nâng cao năng suất cây trồng, vật
nuôi. Hệ thống cơ sở hạ tầng của xã được đầu tư phát triển đặc việt là giao
thông, thủy lợi phục vụ cho sự phát triển mọi mặt của đời sống, kinh tế, văn hóa
– xã hội của nhân dân.
1.1.2.2. Tình hình xã hội
Xã Nghĩa Lạc với 10.500 nhân khẩu, 2.535 hộ, trong đó có 80% số
hộ sản xuất nông nghiệp, số còn lại thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp
và dịch vụ.
Cơ cấu kinh tế của xã đang có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ. Trên địa bàn xã có 7 tổ hợp may công nghiệp, nhà máy gạch
Đồng Bằng (18triệu viên/năm)…đã tạo nhiều công ăn việc làm và thu nhập cho
nhiều lao động trong xã.
* Công tác y tế
- Công tác khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân được thực hiện khá
tốt: khám chữa cho 8.548 lượt người (nguồn số liệu thống kê của xã Nghĩa
Lạc 2011).
- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được tiến hành thường xuyên,
không để xảy ra ngộ độc trên toàn địa bàn.
3
4
4
4
4
* Công tác dân số gia đình và trẻ em
- Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 47 của Bộ chính trị về
thực hiện các chính sách về dân số kế hoạch hóa gia đình.
- Công tác chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em luôn được quan tâm.
* Công tác giáo dục
Toàn xã có 1470 học sinhổtng đó: THCS: 452 học sinh; TH: 676 học
sinh; Mầm non: 342 cháu.
* Công tác chính sách xã hội
- Tổ chức thăm hỏi tặng quà các gia đình chính sách, các thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, gia đình hoàn
cảnh khó khăn, đối tượng nhiễm chất độc màu da cam.
* Công tác thông tin tuyên truyền
- Đảng ủy, UBND xã thường xuyên tuyên truyền các chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho người dân.
- Tổ chức phát thanh tuyên truyền đại hội Đảng bộ xã.
*. Công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
- Trong những tháng đầu năm 2012 tình hình an ninh trật tự trên địa bàn
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản được đảm bảo.
- Thường xuyên tuyên truyền triển khai thực hiện các chỉ thị Nghị
quyết, Quyết định, kế hoạch của của cấp trên.
Bên cạnh đó vẫn còn không ít khó khăn, thách thức đặt ra cho xã như
vấn đề: hệ thống điện – nước sạch, cơ sở hạ tầng còn chưa đồng bộ…Chính vì
vậy, vấn đề đặt ra là đòi hỏi hoạt động của các ban ngành phải thường xuyên,
liên tục, tích cực và đồng bộ thống nhất từ trên xuống tiến tới xây dựng gia
đình văn hóa, thôn xóm văn hóa, xã văn hóa, đạt được mục tiêu xây dựng
nông thôn mới. Từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân đồng thời
đẩy mạnh lao động sản xuất, tạo công ăn việc làm cho lao động dư thừa, từng
bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
4
5
5
5
5
1.1.3. Tình hình sản xuất
1.1.3.1. Về ngành chăn nuôi
Hai ngành chăn nuôi và trồng trọt có mối quan hệ mật thiết với nhau, nó
song song và tồn tại hỗ trợ thúc đẩy lẫn nhau.
Ngành chăn nuôi cung cấp nhu cầu thực phẩm cho xã cũng như các
vùng lân cận. Ngành chăn nuôi sử dụng lao động dư thừa tại địa phương, tăng
thu nhập cho người dân. Đồng thời sử dụng các sản phẩm dư thừa của ngành
trồng trọt vào chăn nuôi làm tăng giá trị sản phẩm, biến các phế phẩm phụ của
ngành trồng trọt không có giá trị thành các sản phẩm có giá trị kinh tế cao cho
người lao động.
* Chăn nuôi trâu, bò
Tình hình chăn nuôi trâu, bò có sự thay đổi qua các năm. Tổng số con
trâu năm 2009 là 127 con, năm 2010 là 106 con giảm 83,5% Nhưng năm
2011 thì số lượng trâu còn lại là 100 con, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp – dịch vụ. Bên cạnh đó thì số lượng đàn bò
trên địa bàn xã cũng đang giảm đần qua các năm. Trước kia các hộ nông dân
thường sử dụng trâu bò làm sức cày kéo nhưng đến nay phần lớn đã sử dụng
máy móc làm sức cày kéo.
* Chăn nuôi lợn
Tổng đàn lợn của xã hiện có là 3.700 con. Trong đó có nhiều giống lợn
tốt, nhiều hộ gia đình nuôi lợn giống Móng Cái, Landrace, Yorkshine…nhằm
chủ động con giống cũng như cung cấp con giống cho nhân dân trong và
ngoài xã.
Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn xã vẫn còn một số hộ dân chăn nuôi
lợn theo phương thức tận dụng các phế phụ phẩm, tận dụng thức ăn thừa dẫn
đến năng suất chăn nuôi chưa cao.
Trong những năm tới, mục tiêu của xã là đẩy mạnh phát triển chăn nuôi
lợn theo hướng công nghiệp, hiện đại, nâng cao chất lượng đàn lợn bố mẹ và
năng suất đàn lợn thương phẩm.
5
6
6
6
6
* Chăn nuôi gia cầm
Tổng đàn gia cầm của xã là 39.000 con. Trong đó, gà chiếm trên 90%.
Chăn nuôi gia cầm của xã có một vị trí quan trọng, đối tượng nuôi chính là gà,
vịt. Đa số các hộ chăn nuôi theo hướng quảng canh, do đó năng suất thấp,
dịch bệnh vẫn còn xảy ra, tỷ lệ chết lớn dẫn đến hiệu quả chăn nuôi giảm. Bên
cạnh đó đã có những hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư xây dựng trang trại có
quy mô lớn, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện tốt
quy trình phòng trừ dịch bệnh, tiêm phòng vắc-xin đầy đủ cho đàn gia cầm
như: vắc-xin Newcastle, Gumboro, Đậu, Dịch tả vịt…Tuy nhiên vẫn còn một
số hộ chăn thả tự do, nhỏ lẻ, lại không có ý thức phòng bệnh nên dịch bệnh
vẫn xảy ra gây thiệt hại về kinh tế và phát tán mầm bệnh ra ngoài môi trường.
Bên cạnh những vật nuôi chính trong gia đình thì những người nông
dân trong xã còn phát triển thêm một số vật nuôi khác nhằm nâng cao mức
thu nhập.
Bảng 1.1: Số lượng, cơ cấu đàn gia súc, gia cầm của xã Nghĩa Lạc
giai đoạn 2009 - 2011
ĐVT: con
STT
Loại gia súc
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
1
Trâu
127
106
100
2
Bò
21
14
10
3
Gia cầm
32,550
36,700
39,000
4
Lợn
2,980
3,360
3,700
5
Vật nuôi khác
960
1,240
1,670
Tổng
36,638
41,420
44,480
So sánh (%)
100
113,05
121,40
(Nguồn số liệu thống kê của xã Nghĩa Lạc tháng 1/2012)
6
7
7
7
7
* Công tác thú y
Công tác thú y và vệ sinh thú y là vấn đề không thể thiếu trong quá
trình chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nó quyết định sự thành bại của người chăn
nuôi, hơn nữa nó còn ảnh hưởng tới sức khỏe của cộng đồng. Nhận thức được
tầm qua trọng của công tác thú y, trong những năm gần đây lãnh đạo xã đã rất
chú trọng tới vấn đề này.
Căn cứ vào lịch tiêm phòng, hàng năm xã đã tổ chức tiêm phòng cho
đàn gia súc, gia cầm và tiêm phòng dại cho 100% chó nuôi trong xã.
Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác tiêm phòng cho đần gia súc, gia cầm
thì công tác kiểm dịch cũng đã được chú trọng. Do vậy trong những năm trở
lại đây trên địa bàn xã không xảy ra các dịch bệnh lớn. Tuy nhiên, cần phải
đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục, để người dân hiểu và chấp
hành tốt pháp lệnh thú y.
1.1.3.2 Về ngành trồng trọt
Xã có diện tích trồng lúa và hoa màu lớn (603,3 ha), đây là điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp với phương thức thâm canh tăng vụ,
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa các giống lúa mới có
năng suất cao. Bên cạnh đó còn trồng xen canh với các loại cây khác như ngô,
lạc có (10,1 ha); diện tích cây có củ, cây hạt có chứa dầu (11,5 ha); diện tích
cây hàng năm (4,8 ha); diện tích rau đậu, hoa cây cảnh (49,4 ha).
Trong những năm qua xã đã thực hiện tốt công tác dồn điền đổi thửa,
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất
cây trồng, tăng thu nhập cho người dân.
1.2. Đánh giá chung
Qua điều tra tình hình cơ bản của xã, tôi xin phép đưa ra nhận định sơ
bộ về những thuận lợi, khó khăn của xã như sau:
1.2.1. Thuận lợi
Địa bàn xã gần trung tâm huyện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán
cũng như tiếp cận, phổ biến tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Nghĩa Lạc là một xã nông nghiệp với diện tích lớn là điều kiện lợi thuận
lợi để phát triển trồng trọt và chăn nuôi, có nguồn lao động dồi dào, thị trường
tiêu thụ ngày càng mở rộng.
7
8
8
8
8
Bên cạnh đó, xã có đội ngũ cán bộ trẻ, nhiệt tình, năng động, thuận lợi
cho việc áp dụng những tiến bộ bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nâng cao
năng suất cây trồng, vật nuôi, từ đó đưa xã đi lên, đời sống của nhân dân ngày
càng được cải thiện.
Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao nên việc chuyển giao, áp
dụng những tiến bộ bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất là rất thuận lợi. Hơn
nữa hầu hết các nguồn lợi đều ở dạng tiềm năng chưa được khai thác hoặc
khai thác ít.
Đặc biệt chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước đã
được mở rộng, tình chính trị ổn định tạo tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội.
1.2.2. Khó khăn
Chăn nuôi gia cầm vẫn chủ yếu là theo phương thức chăn thả tự do,
thiếu tập trung, chưa được người dân chú trọng, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Công tác tuyên truyền lợi ích của việc vệ sinh thú y là chưa thực sự
hiệu quả, người dân chưa ý thức được vai trò quan trọng của công tác vệ sinh
thú y trong chăn nuôi
Mặt khác, hàng năm tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, ảnh hưởng
lớn đến ngành chăn nuôi và trồng trọt, khí hậu khắc nghiệt ở một số tháng gây
ra nhiều bệnh tật, làm giảm khả năng sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng.
1.3. Kết quả phục vụ sản xuất
Trong thời gian thực tập tại xã Nghĩa Lạc, được sự giúp đỡ tận tình của
thầy, cô giáo, UBND xã Nghĩa Lạc, cùng với sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
đạt được kết quả như sau:
1.1.1. Công tác chăn nuôi
Cùng với việc thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, chúng tôi đã tiến
hành nuôi gà theo quy trình chăn nuôi gà thịt cụ thể như sau:
* Ứng dụng kỹ thuật trong chăn nuôi gà thịt
(-)Chuẩn bị chuồng trại
Trước khi nhận gà vào chuồng nuôi 5 ngày chúng tôi tiến hành vệ sinh
chuồng nuôi. Chuồng được cọ rửa sạch sẽ bằng vòi nước cao áp và phun
8
9
9
9
9
thuốc sát trùng bằng dung dịch Biocid - 30%, nồng độ 100ml/40 lít nước. Sau
khi vệ sinh, sát trùng, chuồng nuôi được khóa cửa, kéo bạt, che rèm kín.
Tất cả dụng cụ chăn nuôi máng ăn, khay ăn, máng uống, rèm che được
cọ rửa sạch sẽ bằng xà phòng ngâm trong dung dịch Formon 2% thời gian 10
- 15 phút.
Đệm lót được sử dụng là trấu khô, sạch và được phun sát trùng trước
khi đưa gà vào một ngày, độ dày của đệm lót tùy thuộc vào điều kiện thời tiết.
Trước khi đưa gà vào nuôi chuồng phải đảm bảo các thông số kỹ thuật:
sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, có rèm che, đèn
chiếu sáng, quạt chống nóng.
(-) Chọn gà nuôi thịt
Chỉ chọn gà khỏe mạnh đủ tiêu chuẩn để đưa vào nuôi. Gà khỏe mạnh
thì lông tơi xốp, bóng mượt, bụng gọn, mềm, rốn khô, gà nhanh nhẹn, mắt
sáng, chân vàng, loại bỏ gà con lông xơ xác, hở rốn, bụng xệ cứng, gà phải có
màu đặc trưng cho giống gà.
(-) Công tác chăm sóc nuôi dưỡng
+ Giai đoạn úm gà (1-21 ngày tuổi):
Trước khi nhận gà vào chuồng vài giờ, tất cả dụng cụ phải được chuẩn
bị sẵn, tương ứng đủ với số lượng gà nhập về. Quây gà bằng cót đã được rửa
sạch, phơi khô. Quây hợp lý đảm bảo không quá rộng cũng không quá chật,
bật điện sưởi trong quây trước 3 giờ đảm bảo nhiệt độ trong quây khi đưa gà
vào là 33°C - 35°C.
Máng ăn, máng uống phải được chuẩn bị đầy đủ, máng uống phải
chuẩn bị trước khi đưa gà vào vì gà có thể uống nước ngay. Nước uống có
pha B.Complex và Hamcoli - forte, máng uống dùng máng gallon cỡ 2 lít/
150 con. Khay ăn cho gà có thể dùng khay nhựa, nhôm cỡ (30 x 50 x 3)cm
cho 50 con gà. Sau khi nhập gà về 1 giờ thì cho gà ăn.
Thường xuyên theo dõi hoạt động của gà, chăm sóc cẩn thận, chu đáo,
không để gà đói, hết nước, nóng. Theo dõi sức khoẻ của đàn gà, sức ăn, sức
uống, không để gà bị lạnh quá, nóng quá, thường xuyên nới quây theo sức lớn
của đàn gà.
9