1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.82 KB, 112 trang )


Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



vận dầu từ năm 1973 đến 1974, việc xuất khẩu nhiên liệu cho xe ô tô từ Mỹ

sang Nhật Bản.

Trong giai đoạn đầu nhờ có giá nhiên liệu thấp, Mỹ đã sản xuất ra các

loại “ô tô có sức mạnh”, tuy nhiên sau cú sốc về giá dầu, thêm vào đó Nhật

Bản và các nước Châu Âu đã thành công trong việc sản xuất ra nhiên liệu cho

xe ô tô, bắt buộc Mỹ phải cạnh tranh với các nước này. Đến năm 1982, Nhật

Bản đã trở thành người dẫn đầu thế giới trên thị trường Mỹ. Những cơ hội

tăng trưởng tiềm tàng đã gây ra hiện tượng công suất thừa trên toàn cầu trong

ngành công nghiệp ô tô. Những năm 1990 đã chứng kiến những cuộc mua lại

và sáp nhập (M&A), nhờ đó mà vấn đề thừa công suất đã được giải quyết.

Cạnh tranh ngày càng khốc liệt cộng với sự gia tăng thương mại toàn

cầu là những nhân tố chính góp phần cải thiện hệ thống phân phối toàn cầu và

buộc các tập đoàn lớn về ô tô như General Motors, Ford, Toyota, Honda,

Volkswagen và Daimler Chrysler phải chuyển việc sản xuất sang các nước

đang phát triển với mục đích các nước này sẽ giúp các tập đoàn ô tô lớn hoạt

động có hiệu quả trên thị trường cạnh tranh toàn cầu. Trong những năm cuối

của thập kỉ 1990, toàn cầu hoá trong ngành công nghiệp ô tô phát triển mạnh

mẽ nhờ có sự thành lập các cơ sở sản xuất quan trọng ở nước ngoài và sự mua

lại, sáp nhập giữa các tập đoàn ô tô đa quốc gia. Thực tế cho thấy rằng, trong

giai đoạn này Châu Á nổi lên như là một trung tâm ô tô toàn cầu. Xuất khẩu ô

tô bao gồm cả linh kiện phụ tùng từ khu vực này tăng lên một cách nhanh

chóng. Có thể nói, Châu Á đã trở thành thị trường tiêu dùng cũng như trung

tâm sản xuất cung ứng chủ yếu trên thế giới. Trong đó có thể kể đến như Thái

Lan là nước xuất khẩu chính của Châu Á, chủ yếu được điều hành bởi các

doanh nghiệp FDI của Nhật Bản; ngành công nghiệp ô tô Trung Quốc đang

phát triển với tốc độ nhanh chóng với thế mạnh về linh kiện, phụ tùng; còn

Ấn Độ vẫn đang giữ vững vị trí của mình với nhu cầu lớn về xe ô tô nội



5



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



địa…Riêng Nhật Bản và Hàn Quốc đã có một ngành công nghiệp ô tô phát

triển so với trong khu vực cũng như trên thế giới.

1.1.2 Những xu hướng chính trong ngành công nghiệp ô tô thế giới

Hiện nay, trong ngành công nghiệp ô tô thế giới có ba xu hướng chính.

Cụ thể:





Xu hướng dịch chuyển của thị trường sản xuất ô tô



Các nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới vẫn tiếp tục đầu từ vào các cơ

sở sản xuất tại các thị trường mới nổi với mục đích giảm chi phí sản xuất

đồng thời nâng cao lợi nhuận. Những thị trường mới nổi bao gồm: các nước

Châu Mỹ Latinh, Trung Quốc, Malaysia, và các thị trường khác ở Nam Á.





Thành lập các liên minh toàn cầu



Hiện nay xu hướng liên doanh trong ngành công nghiệp ô tô toàn cầu

đang phát triển mạnh mẽ. Hầu hết các nhà sản xuất ô tô hàng đầu trên thế giới

đều hợp tác với nhau. Ba nhà sản xuất ô tô lớn nhất của Mỹ (GM, Ford và

Chrysler) đã sáp nhập với nhau, trong một vài trường hợp đã thiết lập những

chiến lược hợp tác kinh doanh với các nhà sản xuất ô tô ở Châu Âu và Nhật

Bản. Sự sáp nhập Chrysler Daimler-Benz là sự sáp nhập lần đầu tiên của một

nhà sản xuất ô tô Châu Âu với mục đích là củng cố vị trí trên thị trường Mỹ.

Tóm lại, xu hướng sáp nhập chủ yếu xảy ra giữa các nhà sản xuất ô tô hàng

đầu thế giới nhằm mở rộng thị trường ra nước ngoài.





Sự phân cấp trong ngành



Cạnh tranh toàn cầu gia tăng giữa các nhà sản xuất và xác định vị trí

của mình trên thị trường nước ngoài đã phân chia các nhà sản xuất ô tô trên

thế giới thành 3 nhóm: nhóm đầu tiên bao gồm các nhà sản xuất GM, Ford,

Toyota, Honda và Volkswagen; nhóm thứ hai bao gồm các nhà sản xuất như

Chrysler, Mercedes Benz; Renault, Nissan, Fiat; nhóm thứ ba bao gồm các

nhà sản xuất Mazda-Mitsubishi; Kia-Volvo. Trong đó, hai nhóm sau đang nỗ

lực để củng cố hoặc sáp nhập với những nhóm nhà sản xuất ô tô có vị trí thấp



6



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



hơn để cạnh tranh với nhóm thứ nhất. Có thể thấy rõ được xu hướng này qua

sơ đồ sau:

Hình 1: Tình hình tái cơ cấu trong ngành công nghiệp ô tô năm 2000



Nguồn: Asia-Pacific Research and Training Network on Trade

Working Paper Series, No. 37, July 2007

1.1.3. Thương mại quốc tế trong ngành công nghiệp ô tô thế giới

Sự phát triển của thương mại quốc tế trong ngành công nghiệp ô tô đã

thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách để

hoạch định các chiến lược kinh doanh. Thương mại quốc tế trong ngành công

nghiệp ô tô đã ảnh hưởng lên cả tự do hoá cũng như bảo hộ thương mại. Vào

những năm 1970 và 1980, ngành công nghiệp ô tô của Mỹ đã phải đối mặt với



7



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nhà sản xuất ô tô nước ngoài, đặc biệt là từ các

nhà sản xuất ô tô của Nhật bản. Sự suy giảm của nền công nghiệp ô tô nội địa

cộng thêm sự gia tăng về nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản đã khiến chính phủ Mỹ

đã phải đưa ra các chính sách để bảo hộ nền sản xuất nội địa, trong đó chủ

yếu là áp dụng hạn ngạch. Trong giai đoạn khủng hoảng dầu, nhiên liệu dùng

cho xe ô tô sản xuất tại Nhật Bản có nhu cầu cao ở Mỹ. Thêm vào đó, ba tập

đoàn ô tô lớn của Mỹ không mấy mặn mà trong việc sản xuất ô tô cỡ nhỏ đã

làm cho nhu cầu nhập khẩu xe từ Nhật Bản tăng mạnh. Những ước tính vào

những năm đầu 1980 mỗi năm các nhà sản xuất xe ô tô Nhật Bản thu về được

5 tỷ USD từ hạn ngạch nhờ việc bán những loại xe ô tô nằm trong hạn ngạch

với giá cao. Các nhà sản xuất ô tô chính Nhật Bản như Toyota, Honda,

Nissan…đã vượt qua được rào cản hạn ngạch và đầu tư vào thị trường Mỹ.

Ngược lại với các nhà sản xuất Nhật Bản, các công ty ô tô ở Mỹ chủ

yếu phục vụ cho thị trường nội địa. Trong giai đoạn áp dụng hạn ngạch, khi

các nhà sản xuất Nhật Bản giảm giá xe tại thị trường Mỹ khiến các nhà sản

xuất ô tô nội địa không có khả năng cạnh tranh. Nhờ vào năng suất cao và

hiệu quả, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đã giành được quy mô đáng kể mà

các nhà sản xuất ô tô nội địa Mỹ không thể đạt được. Hiện nay, các nhà sản

xuất ô tô của Mỹ đang thực hiện tái cơ cấu ngành, bắt đầu đầu tư vào các

nước khác nhằm lấy lại được thị phần toàn cầu. Trong khi đó, các quốc gia

Đức, Nhật Bản, Canada nổi lên như là những nhà xuất khẩu chính vào thị

trường Mỹ.



8



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



Bảng 1: Thương mại quốc tế ở những quốc gia chính sản xuất ô tô

Đơn vị: tỷ USD

Xuất khẩu



Nhập khẩu



Mô tả



2000



2005



1995



2000



2005



Linh kiện ô tô



17.53



19.67



28.86



11.83



13.56



24.84



Xe nguyên



20.62



24.09



42.54



21.49



22.43



36.64



Linh kiện ô tô



29.93



35.59



73.33



15.88



22.63



47.03



Xe nguyên



60.83



72.37



131.18



29.95



27.61



43.62



Linh kiện ô tô



11.42



12.75



23.54



5.62



7.30



11.71



Xe nguyên



12.56



12.15



15.61



16.06



21.98



36.75



Linh kiện ô tô



10.69



13.11



15.74



14.72



15.15



24.45



Xe nguyên



13.89



16.92



28.48



18.93



25.78



42.40



Linh kiện ô tô



40.26



35.23



47.93



3.11



4.68



8.53



Xe nguyên



57.28



70.38



97.27



10.55



7.47



8.94



Linh kiện ô tô



1.18



2.63



9.78



3.31



2.80



5.09



Xe nguyên



8.55



13.38



29.60



0.61



0.31



1.68



Linh kiện ô tô



Pháp



1995



37.16



52.55



53.08



41.69



57.16



81.90



Xe nguyên



24.22



25.89



40.67



81.49



133.44 154.47



chiếc

Đức



chiếc



Ý



chiếc



Anh



chiếc

Nhật

Bản



Hàn

Quốc



Mỹ



chiếc



chiếc



chiếc

Nguồn: www.oica.net



9



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



Từ bảng trên ta có thể thấy rằng trong giai đoạn những năm 1995 đến

2005 Đức đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nước xuất khẩu ô tô chính trên thế

giới. Trong giai đoạn này các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đang tập trung vào việc

cải tổ lại các nhà máy sản xuất xe cũng như đầu tư mới vào khu vực Đông Nam

Á và các quốc gia đang phát triển khác và sử dụng những khu vực này làm trung

tâm xuất khẩu. Vì những lí do đó mà giá trị xuất khẩu ô tô của Nhật Bản bị giảm

sút. Nhìn vào bảng trên ta cũng nhận thấy rằng các quốc gia lớn của Châu Âu

nhập khẩu rất nhiều bao gồm cả linh kiện phụ tùng và xe nguyên chiếc, kim

ngạch nhập khẩu đạt giá trị lớn đáng kể trong suốt giai đoạn 2000-2005. Trong

khi đó, các quốc gia sản xuất ô tô chủ yếu ở khu vực Châu Á như Nhật Bản và

Hàn Quốc lại nhập khẩu rất ít các linh kiện phụ tùng.

Năm 2006, sản lượng ô tô toàn cầu vượt mức 70 triệu xe, tăng 5% so

với năm 2005. Hãng Toyota (Nhật Bản) đang hướng tới vị thế hàng đầu trong

ngành công nghiệp ô tô toàn cầu. Dự báo Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Nga

sẽ chiếm tới 52% sản lượng xe xuất xưởng trên thế giới trong vòng 4 năm tới.

Hiệp hội sản xuất ôtô quốc tế (OICA) cho biết, trong 6 tháng đầu năm nay các

hãng ôtô thế giới đã xuất xưởng 35,4 triệu xe, tăng 6% so với cùng kỳ năm

trước. Mỹ tiếp tục giữ vị trí hàng đầu thế giới, xuất xưởng 6,1 triệu xe. Nhật

Bản đứng thứ 2 với 5,7 triệu xe, tăng 4%. Trung Quốc có sản lượng xe hơi

tăng mạnh nhất, đạt 3,6 triệu xe, tăng 28,8%, vượt cả Đức có sản lượng 3 triệu

xe. Sản lượng xe Hàn Quốc đạt 1,96 triệu chiếc, tăng 5,5%, vượt sản lượng

của Pháp 1,76 triệu xe. Ngành sản xuất ô tô của Liên minh châu Âu (EU) chỉ

tăng 1,5%. Sản lượng ô tô của các nước thành viên EU cũ đạt 8,65 triệu xe,

giảm 1%.

Trong cuộc cạnh tranh quyết liệt với các hãng ô tô ở châu Á, các hãng sản

xuất ô tô của Mỹ đã phải giảm lượng xe bán ra. Trong quý IV/2006 General

Motor (GM) tuyên bố cắt giảm 12% công suất. Riêng trong tháng 9/2006, doanh

số bán xe con các loại của GM giảm 6,4%, các loại xe tải và xe thể thao giảm



10



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



0,7%. Hãng Ford cắt giảm 21% công suất, mức thấp nhất kể từ năm 1982, giảm

chi phí thêm 5 tỷ USD và giảm 1/3 lực lượng sản xuất. Tập đoàn Daimler

Chrysler thông báo bị thua lỗ 1,2 tỷ USD trong năm 2006, doanh số bán ra trong

tháng 9 giảm 2,3%. Tuy nhiên doanh số bán các loại xe mang nhãn hiệu

Mercedes-Benz tăng 13,2%. Hãng Chrysler, thuộc công ty mẹ Daimler Chrysler

đã cắt giảm 17% công suất, tương đương với 135.000 xe.

Trong bối cảnh kinh doanh của các “đại gia” như GM, Ford, Daimler

Chrysler khá ảm đạm, đà tăng trưởng của Nissan Renault đang chậm lại, hãng

Toyota nắm bắt thời cơ vươn lên vị trí dẫn đầu với lượng xe bán ra trong năm

2006 đạt 8,47 triệu xe và sẽ bán ra 9,8 triệu xe trên thế giới vào năm 2008, có

lợi nhuận cao nhất so với các đại gia và sẽ vượt qua GM trở thành tập đoàn

sản xuất ô tô số 1 toàn cầu, vị trí mà GM giữ trong suốt 75 năm qua. Tại khu

vực Bắc Mỹ-thị trường ô tô lớn nhất thế giới, Toyota có kế hoạch tăng sản

lượng lên 20% với 1,84 triệu xe vào năm 2008. Hãng này có kế hoạch đầu tư

1,18 tỷ USD xây dựng thêm các nhà máy sản xuất ở nước ngoài để mở rộng

sản xuất, tăng 40% xe xuất xưởng, đạt khoảng 5 triệu xe vào năm 2008. Riêng

tại Trung Quốc, hãng này đã tăng sản lượng gấp 4 lần so với năm 2006, với

600.000 xe xuất xưởng. Tại thị trường trong nước, Toyota tăng sản lượng lên

4,15 triệu xe vào 2 năm tới.

Bên cạnh Nhật Bản, trong những năm gần đây với phương châm sản

xuất xe giá rẻ và mẫu mã đẹp, cộng với chi phí nhân công rẻ ngành công

nghiệp ô tô Trung Quốc đang phát triển rất mạnh mẽ, tạo áp lực cạnh tranh

lên ngành công nghiệp ô tô của các quốc gia hàng đầu như Mỹ, Nhật

Bản…Trong năm 2007, tổng sản lượng ô tô Trung Quốc đạt 8,88 triệu xe tăng

22,02% so với năm 2006, đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 3 sau Nhật Bản và

Mỹ trong danh sách 10 nước dẫn đầu công nghiệp ô tô thế giới. Bên cạnh đó,

với số lượng dân cư đông nhất thế giới và sự phát triển như vũ bão của nền



11



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



kinh tế khiến chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao, hứa hẹn Trung Quốc

là thị trường tiêu thị ô tô tiềm năng nhất thế giới.

1.2 Những tiêu chí cơ bản đánh giá tính thích ứng

1.2.1 Khái niệm

Từ điển Webster’s New Collegiate năm 1973 định nghĩa “Khả năng

thích ứng là khả năng thích nghi với các điều kiện của môi trường”. Khả

năng thích ứng của sản phẩm là khả năng của doanh nghiệp trong việc thay

đổi các sản phẩm và hệ thống hỗ trợ sản phẩm để thích nghi với các thay đổi

trong các môi trường như: môi trường cạnh tranh, môi trường kỹ thuật và môi

trường kinh doanh.

Các yếu tố quyết định đến khả năng thích ứng của sản phẩm bao gồm:

các tiêu chuẩn hoạt động và lĩnh vực của sản phẩm. Các tiêu chuẩn hoạt động

là các tiêu chuẩn thuộc nội tại (ví dụ: hiệu suất) hoặc các tiêu chuẩn về ngoại

cảnh (ví dụ: sự chấp nhận của thị trường). Còn lĩnh vực sản phẩm có thể được

giới hạn trong một dây chuyền sản xuất đơn lẻ hoặc các dây chuyền sản xuất

phức tạp.

Việc phân biệt các tiêu chuẩn hoạt động nội tại với các tiêu chuẩn hoạt

động ngoại cảnh là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp. Các tiêu chuẩn hoạt động nội tại là các tiêu chuẩn có

liên quan đến hiệu suất, chẳng hạn như chi phí sản xuất. Trong khi đó, các

tiêu chuẩn hoạt động ngoại cảnh lại đề cập đến khía cạnh pháp lý như các quy

định của xã hội đối với một sản phẩm thông qua các cơ chế như nhu cầu thị

trường, tính hợp pháp, khả năng chấp nhận của xã hội đối với việc tiêu dùng

sản phẩm đó. Sự vô hiệu trong bất kỳ một khía cạnh nào nói trên đều có thể là

nguy cơ dẫn tới sự thất bại của sản phẩm. Quy trình sản xuất không hiệu quả

thì có thể làm gia tăng chi phí sản xuất, thu hẹp lợi nhuận và đe doạ sự sống

còn của sản phẩm cũng như doanh nghiệp. Nói cách khác, yếu tố hiệu suất



12



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



chưa đủ để đảm bảo sự sống còn nếu như thị trường không chính thức chấp

nhận sản phẩm đó, tức là thị trường không có nhu cầu.

Để hiểu rõ hơn về khả năng thích ứng của sản phẩm thì một yếu tố

không kém phần quan trọng nữa là phải phân biệt được các hệ thống sản xuất

đơn lẻ với hệ thống sản xuất phức tạp. Các công ty sản xuất một sản phẩm thì

có vẻ ít phức tạp hơn so với các công ty sản xuất nhiều sản phẩm, điều này

làm giảm đi các vấn đề về liên kết và kiểm soát. Các công ty này có xu hướng

tăng trưởng nhanh hơn và thích ứng vượt trôi trong môi trường cạnh tranh.

Ngược lại, các công ty sản xuất nhiều sản phẩm có cơ hội tận dụng mối quan

hệ thông qua các sản phẩm của mình.

Khả năng thích ứng của sản phẩm bao gồm các yếu tố: Khả năng thay

đổi, khả năng chấp nhập, khả năng tương thích, khả năng ảnh hưởng.

Từ những lý luận về khả năng thích ứng nói chung và khả năng thích

ứng của sản phẩm nói riêng, ta có thể rút ra được khái quát chung về khả năng

thích ứng của ngành. Khả năng thích ứng của ngành sản xuất cũng là khả

năng thích nghi của ngành với các điều kiện môi trường. Nó cũng bao gồm

các yếu tố giống với khả năng thích ứng của sản phẩm. Tuy nhiên, điểm khác

biệt ở đây là ngành sản xuất thì không chỉ là một sản phẩm mà bao gồm rất

nhiều lĩnh vực sản phẩm khác nhau, do đó nghiên cứu khả năng thích ứng của

ngành thì phải nghiên cứu khả năng thích ứng của từng sản phẩm riêng biệt,

từ đó liên kết, tổng hợp để đưa ra những giải pháp phù hợp cho sự thích ứng

của tất cả các sản phẩm với điều kiện môi trường.

Ngành công nghiệp sản xuất ô tô, với đặc thù là ngành có hàm lượng kĩ

thuật cao, công nghệ sản xuất hiện đại, có tác động rõ rệt đến con người và

môi trường sống. Do đó, nghiên cứu khả năng thích ứng của ngành ô tô thì

thường tập trung vào nghiên cứu các tiêu chuẩn liên quan đến kĩ thuật, các

biện pháp làm giảm ô nhiễm môi trường cũng như các chính sách, biện pháp

tác động đến sự phát triển của ngành.



13



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



1.2.2 Các yếu tố quyết định khả năng thích ứng của sản phẩm

1.2.2.1 Khả năng thay đổi

Theo từ điển Webster’s New Collegiate năm 1973 định nghĩa Khả năng

thay đổi là khả năng tạo ra sự thay đổi, những thay đổi này “đưa ra một định

hướng mới hoặc giới hạn mới”. Ở đây, khả năng thay đổi có liên quan đến

hiệu quả thay đổi một sản phẩm của doanh nghiệp, bao gồm nghiên cứu và

phát triển, quy trình sản xuất hay các hệ thống liên quan đến sản xuất khác.

Khả năng thay đổi phản ánh sự phù hợp của sản phẩm với môi trường hoạt

động của doanh nghiệp, có nghĩa là môi trường hoạt động bên trong (chẳng

hạn như yếu tố hiệu suất) và tập trung vào một sản phẩm đơn lẻ chứ không

phải là nhiều sản phẩm.

Sự phù hợp liên quan đến sự hài hoà giữa các yếu tố với nhau. Khả

năng thay đổi sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự phù hợp giữa các

kỹ năng của doanh nghiệp trong việc thiết kế mẫu mã, sản xuất, phân phối,

và/ hoặc cung cấp dịch vụ và các thiết bị kỹ thuật cần thiết để tạo ra các đặc

điểm mới của sản phẩm. Sự không tương xứng giữa các kỹ năng và thiết bị kỹ

thuật cần thiết có thể làm giảm khả năng thích ứng với những thay đổi trên thị

trường của doanh nghiệp.

1.2.2.2 Khả năng tương thích

Theo từ điển Webster’s New Collegiate năm 1973, Khả năng tương

thích là khả năng “ cùng tồn tại trong sự hài hoà” của các yếu tố độc lập. Khả

năng tương thích có liên quan đến hiệu quả thay đổi chuỗi sản phẩm của

doanh nghiệp. Khả năng tương thích của sản phẩm đề cập tới phạm vi mà

trong đó một sản phẩm phù hợp với các sản phẩm khác của doanh nghiệp, xét

trên khả năng của doanh nghiệp trong việc loại bỏ, giảm bớt hoặc bổ sung vào

dây chuyền sản xuất.

Trong khi việc tập trung vào khả năng tương thích xuất phát từ bên

trong thì khả năng thay đổi lại tập trung vào sự phù hợp của mẫu mã, quy



14



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



trình sản xuất, giao hàng và các hệ thống hỗ trợ sản phẩm thông qua các dây

chuyền sản xuất phức tạp. Ví dụ, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đang tập

trung chiến lược chiếm ưu thế của mình vào khả năng đa dạng hoá sản phẩm

và tăng doanh số trong khi vẫn tiếp tục cắt giảm chi phí sản xuất trên một đơn

vị sản phẩm. Chiến lược này khiến cho họ phải đầu tư đáng kể vào dây

chuyền máy tính tự động hoá.

Một loạt các yếu tố như sự đồng bộ hoá của sản phẩm với các sản phẩm

khác, sự tương thích của sản phẩm với các hệ thống sản xuất và phân phối,

với các kỹ năng nghiên cứu và phát triển cũng góp phần tạo nên khả năng

tương thích tổng thể giữa các yếu tố của một chuỗi sản phẩm và từ đó tạo nên

khả năng tương thích của sản phẩm.

Sự đồng bộ hoá của sản phẩm có nghĩa là khi các sản phẩm có cùng các

kỹ năng hay nguồn lực cơ bản, thì sự thay đổi vị trí giữa các sản phẩm đó có

thể sẽ hiệu quả hơn. Do đó, trong khi những gì bỏ ra để nghiên cứu, quản lý

sản phẩm là rất ít thì kết quả thu được từ việc đa dạng hoá lĩnh vực liên quan

thì vượt trội hơn nhiều so với kết quả từ việc đa dạng hoá lĩnh vực không liên

quan giống như trường hợp của các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản nói trên.

1.2.2.3. Khả năng chấp nhận

Khả năng chấp nhận phản ánh khả năng chấp nhận sản phẩm của thị

trường thông qua các nhóm khách hàng hoặc theo thời gian khác với các yếu

tố quyết định khả năng thích ứng dựa trên các tiêu chuẩn nội tại, khả năng

chấp nhận dựa trên các tiêu chuẩn thuộc về ngoại cảnh như tính hợp pháp của

sản phẩm. Các đặc điểm làm tăng khả năng chấp nhận của sản phẩm sẽ nâng

cao khả năng thích ứng của sản phẩm đó đối với sự thay đổi của môi trường.

Để đánh giá khả năng chấp nhận có thể đứng trên cả hai quan điểm là

tĩnh và động. Quan điểm tĩnh phản ánh mức độ chấp nhận sản phẩm của thị

trường thông qua các nhóm khách hàng tại một thời điểm nhất định. Quan



15



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

×