1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

2 Những tiêu chí cơ bản đánh giá tính thích ứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.82 KB, 112 trang )


Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



chưa đủ để đảm bảo sự sống còn nếu như thị trường không chính thức chấp

nhận sản phẩm đó, tức là thị trường không có nhu cầu.

Để hiểu rõ hơn về khả năng thích ứng của sản phẩm thì một yếu tố

không kém phần quan trọng nữa là phải phân biệt được các hệ thống sản xuất

đơn lẻ với hệ thống sản xuất phức tạp. Các công ty sản xuất một sản phẩm thì

có vẻ ít phức tạp hơn so với các công ty sản xuất nhiều sản phẩm, điều này

làm giảm đi các vấn đề về liên kết và kiểm soát. Các công ty này có xu hướng

tăng trưởng nhanh hơn và thích ứng vượt trôi trong môi trường cạnh tranh.

Ngược lại, các công ty sản xuất nhiều sản phẩm có cơ hội tận dụng mối quan

hệ thông qua các sản phẩm của mình.

Khả năng thích ứng của sản phẩm bao gồm các yếu tố: Khả năng thay

đổi, khả năng chấp nhập, khả năng tương thích, khả năng ảnh hưởng.

Từ những lý luận về khả năng thích ứng nói chung và khả năng thích

ứng của sản phẩm nói riêng, ta có thể rút ra được khái quát chung về khả năng

thích ứng của ngành. Khả năng thích ứng của ngành sản xuất cũng là khả

năng thích nghi của ngành với các điều kiện môi trường. Nó cũng bao gồm

các yếu tố giống với khả năng thích ứng của sản phẩm. Tuy nhiên, điểm khác

biệt ở đây là ngành sản xuất thì không chỉ là một sản phẩm mà bao gồm rất

nhiều lĩnh vực sản phẩm khác nhau, do đó nghiên cứu khả năng thích ứng của

ngành thì phải nghiên cứu khả năng thích ứng của từng sản phẩm riêng biệt,

từ đó liên kết, tổng hợp để đưa ra những giải pháp phù hợp cho sự thích ứng

của tất cả các sản phẩm với điều kiện môi trường.

Ngành công nghiệp sản xuất ô tô, với đặc thù là ngành có hàm lượng kĩ

thuật cao, công nghệ sản xuất hiện đại, có tác động rõ rệt đến con người và

môi trường sống. Do đó, nghiên cứu khả năng thích ứng của ngành ô tô thì

thường tập trung vào nghiên cứu các tiêu chuẩn liên quan đến kĩ thuật, các

biện pháp làm giảm ô nhiễm môi trường cũng như các chính sách, biện pháp

tác động đến sự phát triển của ngành.



13



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



1.2.2 Các yếu tố quyết định khả năng thích ứng của sản phẩm

1.2.2.1 Khả năng thay đổi

Theo từ điển Webster’s New Collegiate năm 1973 định nghĩa Khả năng

thay đổi là khả năng tạo ra sự thay đổi, những thay đổi này “đưa ra một định

hướng mới hoặc giới hạn mới”. Ở đây, khả năng thay đổi có liên quan đến

hiệu quả thay đổi một sản phẩm của doanh nghiệp, bao gồm nghiên cứu và

phát triển, quy trình sản xuất hay các hệ thống liên quan đến sản xuất khác.

Khả năng thay đổi phản ánh sự phù hợp của sản phẩm với môi trường hoạt

động của doanh nghiệp, có nghĩa là môi trường hoạt động bên trong (chẳng

hạn như yếu tố hiệu suất) và tập trung vào một sản phẩm đơn lẻ chứ không

phải là nhiều sản phẩm.

Sự phù hợp liên quan đến sự hài hoà giữa các yếu tố với nhau. Khả

năng thay đổi sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự phù hợp giữa các

kỹ năng của doanh nghiệp trong việc thiết kế mẫu mã, sản xuất, phân phối,

và/ hoặc cung cấp dịch vụ và các thiết bị kỹ thuật cần thiết để tạo ra các đặc

điểm mới của sản phẩm. Sự không tương xứng giữa các kỹ năng và thiết bị kỹ

thuật cần thiết có thể làm giảm khả năng thích ứng với những thay đổi trên thị

trường của doanh nghiệp.

1.2.2.2 Khả năng tương thích

Theo từ điển Webster’s New Collegiate năm 1973, Khả năng tương

thích là khả năng “ cùng tồn tại trong sự hài hoà” của các yếu tố độc lập. Khả

năng tương thích có liên quan đến hiệu quả thay đổi chuỗi sản phẩm của

doanh nghiệp. Khả năng tương thích của sản phẩm đề cập tới phạm vi mà

trong đó một sản phẩm phù hợp với các sản phẩm khác của doanh nghiệp, xét

trên khả năng của doanh nghiệp trong việc loại bỏ, giảm bớt hoặc bổ sung vào

dây chuyền sản xuất.

Trong khi việc tập trung vào khả năng tương thích xuất phát từ bên

trong thì khả năng thay đổi lại tập trung vào sự phù hợp của mẫu mã, quy



14



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



trình sản xuất, giao hàng và các hệ thống hỗ trợ sản phẩm thông qua các dây

chuyền sản xuất phức tạp. Ví dụ, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đang tập

trung chiến lược chiếm ưu thế của mình vào khả năng đa dạng hoá sản phẩm

và tăng doanh số trong khi vẫn tiếp tục cắt giảm chi phí sản xuất trên một đơn

vị sản phẩm. Chiến lược này khiến cho họ phải đầu tư đáng kể vào dây

chuyền máy tính tự động hoá.

Một loạt các yếu tố như sự đồng bộ hoá của sản phẩm với các sản phẩm

khác, sự tương thích của sản phẩm với các hệ thống sản xuất và phân phối,

với các kỹ năng nghiên cứu và phát triển cũng góp phần tạo nên khả năng

tương thích tổng thể giữa các yếu tố của một chuỗi sản phẩm và từ đó tạo nên

khả năng tương thích của sản phẩm.

Sự đồng bộ hoá của sản phẩm có nghĩa là khi các sản phẩm có cùng các

kỹ năng hay nguồn lực cơ bản, thì sự thay đổi vị trí giữa các sản phẩm đó có

thể sẽ hiệu quả hơn. Do đó, trong khi những gì bỏ ra để nghiên cứu, quản lý

sản phẩm là rất ít thì kết quả thu được từ việc đa dạng hoá lĩnh vực liên quan

thì vượt trội hơn nhiều so với kết quả từ việc đa dạng hoá lĩnh vực không liên

quan giống như trường hợp của các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản nói trên.

1.2.2.3. Khả năng chấp nhận

Khả năng chấp nhận phản ánh khả năng chấp nhận sản phẩm của thị

trường thông qua các nhóm khách hàng hoặc theo thời gian khác với các yếu

tố quyết định khả năng thích ứng dựa trên các tiêu chuẩn nội tại, khả năng

chấp nhận dựa trên các tiêu chuẩn thuộc về ngoại cảnh như tính hợp pháp của

sản phẩm. Các đặc điểm làm tăng khả năng chấp nhận của sản phẩm sẽ nâng

cao khả năng thích ứng của sản phẩm đó đối với sự thay đổi của môi trường.

Để đánh giá khả năng chấp nhận có thể đứng trên cả hai quan điểm là

tĩnh và động. Quan điểm tĩnh phản ánh mức độ chấp nhận sản phẩm của thị

trường thông qua các nhóm khách hàng tại một thời điểm nhất định. Quan



15



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



điểm động liên quan đến sự chấp nhận liên tục của sản phẩm cho dù nhu cầu

của thị trường có thay đổi theo thời gian.

Khả năng thích ứng nội tại của một doanh nghiệp sẽ trở nên vô nghĩa

nếu như các sản phẩm của doanh nghiệp đó không được thị trường chấp nhận.

Khả năng chấp nhận quyết định sự tồn tại của sản phẩm trong lòng người tiêu

dùng hoặc theo thời gian. Nếu như tập trung vào thị trường ngách (chẳng hạn

như một phân đoạn thị trường) thì khả năng được chấp nhận của sản phẩm sẽ

cao hơn so với việc đem các sản phẩm đó bán tại các thị trường lớn hơn.

Nếu như doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm để đáp ứng một

phân đoạn thị trường thì sản phẩm này chỉ được phân đoạn thị trường đó chấp

nhận, còn nếu như sản phẩm được tiêu chuẩn hoá thì nó có thể đáp ứng được

nhiều phân đoạn thị trường khác nhau.

1.2.2.4 .Khả năng ảnh hưởng

Khả năng ảnh hưởng đề cập đến sự liên kết của sản phẩm đối với các

sản phẩm khác trong cùng một chuỗi sản phẩm thông qua các nhãn hiệu,

chiến lược xúc tiến và chiến lược hiện hữu chung. Khả năng ảnh hưởng của

sản phẩm là phạm vi mà trong đó sự chấp nhận của thị trường đối với sản

phẩm đó được củng cố bởi vị trí của sản phẩm đó trong chuỗi sản phẩm của

doanh nghiệp.

Khả năng ảnh hưởng của sản phẩm dựa trên khái niệm cho rằng các sản

phẩm hiện hữu có thể “gây ảnh hưởng” lên sự chấp nhận của các sản phẩm

mới hay việc tái định vị của các sản phẩm hiện hữu khác. Theo quan niệm

này, các sản phẩm trong cùng một chuỗi có khả năng thích ứng tốt hơn.

Ví dụ: Việc tung ra sản phẩm Diet Coke không có cà fê in bị ảnh hưởng

bởi sự chấp nhận của thị trường đối với sản phẩm Diet Coke trước đó. Bản

chất của việc mở rộng nhãn hiệu này được khẳng định dựa trên rất nhiều các

yếu tố bao gồm các mối liên kết xúc tiến bán hàng và chiến lược hiện hữu.

Các mối liên kết này tạo cơ sở cho khả năng thích ứng của từng yếu tố trong



16



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



chuỗi sản phẩm. Tuy nhiên, việc sử dụng cách tiếp cận này còn phụ thuộc vào

các đặc điểm của một sản phẩm cụ thể.

Sự phát triển sản phẩm và thương mại hoá thường liên quan đến những

điều không chắc chắn, và cũng không dễ để giảm sự không chắc chắn thông

qua nghiên cứu thị trường. Do bởi sự tác động qua lại rất phức tạp của các yếu

tố môi trường như cạnh tranh và sự thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng, vì

thế các nhà quản lý khó có thể dự đoán được doanh thu một cách chính xác.

Từ đó ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc phân tích khả năng thích

ứng của sản phẩm để thay đổi các điều kiện.

Tuy nhiên, khả năng thích ứng của sản phẩm không phải là một yếu tố

đơn lẻ mà bao gồm 4 yếu tố quyết định như đã phân tích ở trên là khả năng

thay đổi, khả năng tương thích, khả năng chấp nhận và khả năng ảnh hưởng.

Các sản phẩm có thể được lập kế hoạch, được đánh giá dựa trên các yếu tố

này. Triển vọng về khả năng thích ứng của sản phẩm liên quan đến các yếu tố

về quản lý, bao gồm:

Thứ nhất, tất cả các khía cạnh của khả năng thích ứng nên được đánh

giá cẩn thận trong quá trình phát triển sản phẩm. Tại một thị trường biến

động, các nhà quản lý có thể sẽ khôn ngoan khi cân bằng các biện pháp để dự

đoán nhu cầu với nỗ lực để đánh giá khả năng thích ứng của sản phẩm. Nhu

cầu về các sản phẩm mới thì thường khó dự đoán trước được. Khi doanh thu

giảm để đáp ứng sự mong đợi của khách hàng đó chính là một sự thích ứng

của sản phẩm.

Thứ hai, khả năng thích ứng của sản phẩm nên hỗ trợ cho những chiến

lược có định hướng của tổ chức. Khả năng thích ứng của sản phẩm có thể bổ

sung và củng cố chiến lược của doanh nghiệp. Ví dụ như, một điểm yếu có

thể xảy ra của một chiến lược thì được hỗ trợ bởi các tiện nghi có số lượng và

quy mô lớn được thiết kế nhằm mục đích giảm chi phí sản xuất. Mối đe doạ



17



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



cố hữu ở đây là sự thay đổi sở thích của người tiêu dùng sẽ loại bỏ hoặc làm

giảm đi nhu cầu về sản phẩm.

Thứ ba, các nhà quản lý nên nhận biết được những yếu tố duy nhất này

làm cơ sở cho khả năng thích ứng của sản phẩm. Từng yếu tố riêng biệt dẫn

đến sự thích ứng của một trong những lĩnh vực khác nhau thì đều có sự thay

đổi cho phù hợp, vì thế việc khảo sát và nghiên cứu những yếu tố của khả

năng thích ứng trong từng trường hợp cụ thể là rất cần thiết. Ví dụ, nếu khả

năng thích ứng cần tập trung vào khả năng tương thích của bộ phận R&D, thì

sẽ rất hữu hiệu khi phát triển những kiến thức cụ thể hơn về đóp góp thêm cho

các nhân tố này, chẳng hạn như sự tương tác giữa các sản phẩm thông qua

nghiên cứu con người. Hay như đối với lĩnh vực sản xuất xe ô tô, việc nghiên

cứu khả năng thích ứng cũng dựa trên những yếu tố cơ bản trên, tuy nhiên nó

lại được biến đổi cho phù hợp với những đặc trưng của ngành này.

Bên cạnh đó việc phân tích khả năng thích ứng của sản phẩm nên được

thực hiện ngay cả với dịch vụ cũng như hàng hoá. Như các định nghĩa thông

thường thì sản phẩm bao gồm cả dịch vụ và hàng hoá. Trong khi việc tập

trung vào những hàng hoá vật chất hoặc những dịch vụ thay đổi giữa các nền

công nghiệp và các doanh nghiệp, thì hầu như tất cả các doanh nghiệp đều

cung cấp các yếu tố đó. Khả năng thích ứng của dịch vụ là rất quan trọng, cho

dù dịch vụ là khâu sơ cấp hay thứ cấp của việc phân phối sản phẩm. Dịch vụ

có thể được thiết kế và đánh giá dựa trên khả năng thay đổi, khả năng tương

thích, khả năng chấp nhận, và khả năng ảnh hưởng. Khả năng thích ứng của

dịch vụ cũng rất quan trọng đối với các doanh nghiệp mà chủ yếu cung cấp

một loại hàng hoá nhưng cũng cung cấp những dịch vụ hỗ trợ (ví dụ như sản

xuất, lắp ráp và phân phối ô tô). Đối với các doanh nghiệp này dịch vụ có thể

là một biện pháp thứ yếu đối với hàng hoá vật chất, nhưng đó lại có thể chính

là yếu tố cần thiết để phân biệt doanh nghiệp mình với các đối thủ cạnh tranh.

Khả năng thích ứng của dịch vụ này có thể là chiến lược quan trọng.



18



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



Trên đây là những lý thuyết chung về khả năng thích ứng của sản

phẩm, tìm ra các yếu tố chung nhất về khả năng thích ứng để áp dụng với mọi

loại sản phẩm. Tuy nhiên, đối với từng trường hợp cụ thể, khả năng thích ứng

được biến đổi và xác định theo từng tiêu chuẩn cụ thể phù hợp với đặc điểm

của sản phẩm và của ngành đó nhưng vẫn dựa trên các yếu tố chung nhất về

khả năng thích ứng của sản phẩm.

1.2.3. Tiêu chuẩn thích ứng của sản phẩm ô tô

Ô tô là một phát minh vĩ đại trong lịch sử loài người, làm biến đổi cuộc

sống theo hướng thuận tiện, hiện đại hoá. Với đặc trưng là một sản phẩm kĩ

thuật hiện đại đòi hỏi tính chuẩn xác cao, hơn nữa sản phẩm ô tô vừa có tác

động đến con người và xã hội, vì thế các tiêu chuẩn thích ứng của ô tô cũng

rất phức tạp. Như chúng ta đã biết, ô tô không phải được phát minh ra trong

ngày một ngày hai và là phát minh riêng của nhà phát minh nào. Lịch sử ô tô

phản ánh sự tiến bộ diễn ra trên khắp thế giới. Ước tính đã có trên khoảng

100.000 sáng chế để tạo nên chiếc xe ô tô hiện đại như ngày nay. Cứ qua mỗi

lần sáng chế ra những đặc tính mới cho xe ô tô là một lần tiêu chuẩn thích ứng

ô tô của từng quốc gia được thay đổi để phù hợp với xu hướng của thế giới.

Bên cạnh những tiêu chuẩn thích ứng chung về ô tô của thế giới, thì mỗi

ngành công nghiệp ô tô của từng quốc gia cũng có những tiêu chuẩn riêng của

mình. Tuy nhiên, do có giới hạn nên luận văn chỉ đi sâu phân tích những tiêu

chuẩn thích ứng chung về ô tô của thế giới và thực trạng áp dụng các tiêu

chuẩn đó ở một số quốc gia.

1.2.3.1 Tiêu chuẩn quản lý chất lượng trong ngành công nghiệp ôtô- ISO/TS

16949

ISO/TS 16949 là tiêu chuẩn quản lý chất lượng áp dụng đối với các nhà

sản xuất và cung cấp trong ngành công nghiệp ô tô trên toàn cầu được đưa ra

với sự thống nhất của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO), Hiệp hội Ô tô



19



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



Thế giới (IATF - International Automotive Task Force) và Hiệp hội ô tô Nhật

Bản (JAMA).

ISO/TS 16949 được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1999 trên cơ sở nền

tảng của tiêu chuẩn QS- 9000, tiêu chuẩn EAQF của Pháp, AVSQ của Italia,

và VDA6 của Đức. Lần ban hành thứ hai vào năm 2002 cho chúng ta phiên

bản ISO/TS 16949:2002 và tiếp tục phát triển tiêu chuẩn này trên nền tảng

của ISO 9001:2000, trong đó có các hướng dẫn chi tiết hơn về yêu cầu kỹ

thuật áp dụng riêng cho các nhà sản xuất ô tô, xe máy và các phụ tùng thay

thế có liên quan. Một trong các lợi ích cơ bản của tiêu chuẩn này là giúp cho

các hãng sản xuất ô tô lớn tại Châu Á, Châu Âu, hay châu Mỹ tiếp cận chung

tới một phương pháp quản lý chất lượng được thừa nhận ở mức độ toàn cầu.

Có thể nói rằng, khác biệt cơ bản giữa ISO/TS 16949:2002 và QS-9000 là tiêu

chuẩn này tập trung chủ yếu vào các quá trình quản lý của Nhà cung cấp hơn

là Kết quả cuối cùng . Trong khi ISO/TS 16949:2002 đưa ra yêu cầu bắt buộc

phải thực hiện cải tiến thì QS-9000 chỉ xem yêu cầu này như một khuyến nghị

thực hiện.

Mục đích của ISO/TS 16949:2002 là cải tiến liên tục, phòng ngừa sai

lỗi, giảm biến động và giảm lãng phí trong chuỗi cung cấp. Tiêu chuẩn này

yêu cầu các nhà cung cấp phải tập trung vào cải tiến liên tục trong toàn bộ tổ

chức. Ví dụ về các yêu cầu cải tiến này là các điều khoản về việc phải thường

xuyên giám sát, trao đổi thông tin với khách hàng để cung cấp các sản phẩm

đáp ứng chất lượng, hay là phải cử ra đại diện của khách hàng. ISO/TS

16949:2002 cũng yêu cầu đơn vị áp dụng phải tăng cường công tác đào tạo

nâng cao năng lực và nhận thức của người lao động, quy định trách nhiệm của

người lao động đối với vấn đề chất lượng. Năng lực của cán bộ được đề cập

khá chi tiết tại các nội dung như thiết kế quá trình, thiết kế và phát triển, theo

dõi và đo lường quá trình, sản phẩm, phân tích dữ liệu.



20



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



Ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất và phân phối các sản phẩm ô tô

hiện nay là một ngành hoạt động có tính toàn cầu. Một nhà sản xuất phụ tùng

ô tô có thể chỉ là rất nhỏ như một con ốc bắt trong chi tiết máy đều có thể tổ

chức sản xuất hàng loạt sản phẩm với số lượng rất lớn và có khả năng xuất

khẩu để phục vụ việc lắp ráp tại tất cả các hãng ô tô lớn trên toàn thế giới. Vì

thế các sản phẩm đầu vào của các nhà sản xuất ô tô mang tính đa dạng, chi

tiết và thể hiện tính chuyên nghiệp hoá thông qua việc sử dụng nhiều sản

phẩm của nhiều nhà cung cấp linh phụ kiện và ngược lại một nhà sản xuất

linh phụ kiện có thể cung cấp cho rất nhiều hãng sản xuất ô tô lớn khác nhau.

Điều này dẫn đến nhu cầu cần phải xác định được các tập hợp chung giữa đặc

điểm địa lý, văn hoá, khí hậu, sự phát triển của nền kinh tế, mẫu mã hay thậm

chí yêu cầu của pháp luật tại mỗi quốc gia. Nhu cầu này đòi hỏi các nhà cung

cấp phải đảm bảo thực hiện theo đúng cam kết, tiến độ, số lượng, chủng loại,

yêu cầu nghiêm ngặt trong yêu cầu phê duyệt sản phẩm (PPAP), hoạch định

chất lượng theo yêu cầu khách hàng (APQP), phân tích mối nguy tiềm năng

(FMEA), phân tích sai số trong dụng cụ đo ảnh hưởng đến chất lượng sản

phẩm (MSA). Toàn bộ các yêu cầu hợp nhất này sẽ được giải quyết khi doanh

nghiệp áp dụng và được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo ISO/TS

16949:2002.

Việc áp dụng ISO/TS 16949:2002 về cơ bản có các đặc điểm tương

đồng với ISO 9001:2000. Đặc điểm này mang lại cho ISO/TS 16949:2002

một lợi thế lớn khi cùng lúc có được sự công nhận của toàn hiệp hội cũng như

sự phổ cập có tính toàn cầu của một tiêu chuẩn thông dụng. Thuận lợi này

giúp cho doanh nghiệp vượt qua rào cản bởi các yêu cầu khắt khe mang tính

đặc thù của từng hãng lớn trên thế giới thông qua:





Cải tiến chất lượng sản phẩm và quá trình quản lý thông qua hoạt



động bằng việc bám sát và cập nhật thường xuyên các yêu cầu của khách

hàng, nâng cao sự thoả mãn của khách hàng; hợp lý hoá và tối ưu hoá mặt



21



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



bằng, dây chuyền sản xuất; đặc thù và phù hợp trong ngành ô tô nhằm ứng

phó với các biến đổi của môi trường kinh doanh, đòi hỏi của thị trường;





Cung cấp niềm tin đối với các tổ chức áp dụng và được chứng



nhận ISO/TS 16949:2002 trên toàn thế giới nhằm giảm bớt các chi phí sản

xuất không cần thiết như chi phí vận chuyển, bảo quản hoặc phải làm lại do

làm đúng ngay từ đầu thông qua mục tiêu, kế hoạch, chi phí phí chất lượng

hay tiến độ giao hàng;





Giảm thiểu sự khác biệt về chất lượng;







Tăng năng suất lao động;







Hình thành ngôn ngữ chung trong sản xuất và kinh doanh, tránh



các hiểu lầm hoặc cản trở hoạt động cải tiến.

1.2.3.2. Tiêu chuẩn khí thải Euro

Châu Âu là cái nôi của ngành công nghiệp ô tô thế giới bởi những phát

minh sang chế đầu tiên về động cơ đốt trong ra đời từ lục địa này. Sự phát

triển vượt bậc của thị trường ô tô giai đoạn 1960-1970 và bài học về cái chết

của 80 người dân New York trong bốn ngày thời tiết đảo lộn do ô nhiễm

không khí, buộc Chính phủ của các nước Châu Âu xây dựng một chương

trình cắt giảm khí thải xe hơi vào năm 1970. Tuy nhiên, phải đến năm 1987,

dự luật hoàn chỉnh quy định giá trị nồng độ giới hạn của các loại khí thải mới

được thông qua và người ta vẫn thường gọi đó là Euro 0. Trải qua 18 năm,

thêm bốn tiêu chuẩn nữa được ban hành bao gồm: Euro I năm 1991, Euro II

năm 1996, Euro III năm 2000 và Euro IV năm 2005. Với mỗi tiêu chuẩn mới

ra đời, nồng độ giới hạn của khí thải lại thấp hơn tiêu chuẩn trước.

Hệ thống khí thải Châu Âu được áp dụng cho tất cả các loại xe trên 4

bánh áp dụng động cơ đốt trong chạy bằng nhiên liệu xăng, dầu, LPG

(Liquefield Petroleum Gas) và chia theo tính năng như xe du lịch, xe công

suất nhỏ, xe công suất lớn và xe buýt.



22



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



Khí thải gây ô nhiễm là những hợp chất độc hại có ảnh hưởng trực tiếp

đến sức khoẻ con người và môi trường trong thời gian dài bao gồm: Cacbon

Oxit (CO), Nitơ Oxit (NOx), hydro cacbon (HC) nói chung và thành phần bụi

bay theo Particulate Matter–PM. Điển hình nhất trong các khí trên là Cacbon

Oxit (CO), sinh ra do quá trình cháy không hoàn toàn các hợp chất chứa

Cacbon.

Bảng 2: Tiêu chuẩn khí thải EURO đối với từng loại xe

Loại xe



Giới hạn



Tiêu

chuẩn



Xe du lịch

(g/km)



Xe

Thƣơng

mại (g/km)



CO

Xăng

Euro I

Euro II

Euro III

Euro IV

Euro I



Euro II



Euro III



Euro IV

Động cơ

Diesel

hạng nặng

(g/km)



Euro I

Euro II

Euro III

Euro IV



2,20

2,60

1,00

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Loại 1

Loại 2

Loại 3



2,20

4,00

5,00

2,30

4,17

5,22

1,00

1,81

2,27



Diesel

3,16

1,00

0,64

1,30

2,72

5,17

6,90

1,00

1,25

1,50

0,64

0,80

0,94

0,50

0,63

0,40

4,90

4,00

5,53

2,76



Xăng

0,30



0,50

0,60

0,70

0,20

0,25

0,29

0,10

0,13

0,15



HC

Diesel

1,13

0,90

0,20

0,10

0,97

1,40

1,70

0,90

1,30

1,60

0,56

0,72

0,86

0,30

0,69

0,46

1,20

1,10

0,83

0,41



Xăng



NOx

Diesel



0,15

0,08



0,50

0,25

0,14

0,19

0,25



1,50

0,18

0,21

0,08

0,10

0,11



0,50

0,65

0,78

0,25

0,33

0,39

9,00

7,00

5,13

2,56



Nguồn: www.tcvn.gov.vn

Các loại khí này có khả năng làm mất vai trò vận chuyển oxy của

hemoglobin một cách nhanh chóng nhờ tạo liên kết bền với nhân tố sắt (Fe)thành phần quan trọng của hemoglobin.

Trong các tài liệu về hệ thống tiêu chuẩn Euro, giá trị nồng độ khí có

thể khác nhau tuỳ theo cách đánh giá. Cách thứ nhất xác định nồng độ khí thải



23



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

×