Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.82 KB, 112 trang )
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
nghiệp ô tô Việt Nam bằng cách đề ra những chiến lược ưu đãi và hỗ trợ sản
xuất cho ngành thông qua các chính sách như đưa công nghiệp ô tô vào danh
mục các ngành, các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, ưu tiên vay vốn, hưởng ưu đãi
về thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chiến lược cũng đề ra những biện
pháp nhằm bảo hộ ngành công nghiệp ô tô non trẻ của nước ta như xây dựng
những rào cản về thuế đối với xe nhập khẩu.
Hình 4: tăng trưởng về số xe ô tô được sản xuất lắp ráp trong nước từ năm
1998-2006
70000
60000
50000
40000
Vietnamese
FDI JV
30000
20000
10000
0
1998
2000
2002
2004
2006
Nguồn: Báo cáo thường niên của VAMA
Do có được nguồn vốn đầu tư lớn, cơ sở vật chất hiện đại, các liên
doanh đã tạo ra sự tăng trưởng đáng kế. Từ sơ đồ trên ta có thể thấy rằng,
trong giai đoạn 1998-2006 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo
ra gần 270.000 sản phẩm các loại, đóng góp 1.5 tỷ USD vào ngân sách nhà
nước cũng như tạo ra hơn 50.000 công ăn việc làm. Tuy nhiên tỷ lệ sản xuất
trong toàn ngành lại giảm dần do sự yếu kém của các doanh nghiệp trong
nước. Trong năm 2003, năng lực sản xuất của các liên doanh chiếm 82 %
tổng sản lượng của ngành. Tuy nhiên, trong hai năm tiếp theo tỷ lệ này đã
giảm xuống còn 53.8% và 58.3% trong năm 2006.
46
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Hình 5: Năng lực sản xuất của VAMA
80392
90000
80000
70000
40853
19556
6870
5871
10000
5932
20000
13934
30000
26872
40000
39876
50000
40141
42556
60000
0
1997
1999
2001
2003
2005
2007
Nguồn: www.vama. org.vn
Riêng đối với năm 2007 có thể coi là một năm tăng trưởng ngoạn mục
của thị trường ô tô Việt Nam, với tổng sản lượng sản xuất ra đạt con số
80.392 xe, gấp đôi sản lượng năm 2006. Như vậy là sau một năm chịu nhiều
áp lực từ thị trường và chính sách thuế, các hãng xe trong nước đã có thể khoá
sổ mỉm cười với sản lượng xe bán ra đạt mức kỷ lục, hứa hẹn sẽ đạt được mục
tiêu là 100.000 xe vào năm 2010.
Hình 6: Cấu trúc thị trường ô tô Việt Nam 2005-2007
45000
40000
35000
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
PC
MPV/SUV
comm. Vh
2005
2006
2007
Nguồn: Báo cáo về công nghiệp ô tô Việt Nam 2007-2010 của RNCOS
47
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Về cơ cấu sản phẩm, MPV/SPV và các dòng xe thương mại vẫn tiếp
tục giữ vững mức tăng trưởng ổn định. Sản lượng xe khách cũng tăng vào
năm 2005 do có quy định cấm xe máy vào các thành phố chính năm 2003.
Quy định cấm xe máy ở các thành phố chính mà không cung cấp phương tiện
thay thế đã tạo ra nhu cầu tương đối lớn đối với dòng xe khách vào năm 2005.
Tuy nhiên, xe máy là phương tiện giao thông chính ở Việt Nam, do không có
phương tiện giao thông thay thế cho người dân thuộc tầng lớp trung và nghèo,
khiến nhà nước phải rút lại lệnh cấm này. Kết quả là vào năm 2006, sản lượng
sản xuất và nhu cầu xe khách đã sụt giảm. (Báo cáo về công nghiệp ô tô Việt
Nam 2007-2010 của RNCOS).
2.3.2. Tình hình tiêu thụ ô tô trong những năm gần đây
Mức tiêu thụ ô tô ở Việt Nam bình quân trong giai đoạn 1997-2002 là
12.194 xe/năm, một con số rất nhỏ so với các nước khác trong khu vực cũng
như trên thế giới (các nước ASEAN 2,1 triệu xe, Úc-New Zealand 1,1 trệu xe,
Hàn Quốc: 1,2 triệu xe, Ấn Độ: 1,5 triệu xe, Trung Quốc 5,2 triệu xe, Nhật
Bản 5,9 triệu xe, Bắc Mỹ 20 triệu xe, Châu Âu 21,6 triệu xe). Tuy nhiên, kể
từ năm 2003 số lượng tiêu thụ ô tô đã được cải thiện đáng kể với mức sản
lượng 40.000 xe/năm.
Năm 2006 được đánh giá là một năm khá truân chuyên đối với nền
công nghiệp ô tô Việt Nam. Trước chính sách thuế còn nhiều bất cập, sự cạnh
tranh của các đối thủ xe nhập khẩu nguyên chiếc hay xe cũ giá rẻ, đặc biệt
tâm lý đợi chờ của người tiêu dùng khi Việt Nam gia nhập WTO khiến các
doanh nghiệp trong nước khá đau đầu khi tìm cách giải quyết bài toán tiêu thụ
nan giải. Tổng sản lượng tiêu thụ trong nước đạt 40.853 xe, chỉ tăng lên 2%
so với năm 2005 (39.876 xe), tuy nhiên đây cũng là kết quả đáng ghi nhận
cho sự nỗ lực vượt khó của các doanh nghiệp nước nhà. Trong đó, xe đa công
dụng SUV/MPV đạt 15.855 xe, tăng 17% so với năm ngoái (13.524 xe), dòng
xe thương mại cũng tăng 17% (17.518 xe so với 14.989 xe). Tuy nhiên dòng
48
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
xe du lịch lại chỉ tiêu thụ được 7.480 xe giảm 34% so với cùng kỳ năm ngoái
(11.363 xe).
Đầu năm 2007, Công ty liên doanh Vindaco chuyên sản xuất và phân
phối sản phẩm mang nhãn hiệu Daihatsu, là một thành viên của VAMA đã
tuyên bố dừng hoạt động tại Việt Nam do hoạt động không hiệu quả. Tuy
nhiên, sự kiện này không gây tác động xấu đến thị trường ô tô Việt Nam.
Ngược lại, Năm 2007 là một năm tăng trưởng ngoạn mục của cả thị trường ô
tô nội địa lẫn thị trường ô tô nhập khẩu, với tổng lượng tiêu thụ gần 100.000
xe, trong đó tiêu thụ trong nước là 80.392 xe và 28.000 số xe nhập khẩu
nguyên chiếc. Đặc biệt, vào tháng 11 năm 2007 lần đầu tiên số lượng xe tiêu
thụ đã đạt mức 5 con số với 101.10 xe. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự gia
tăng mạnh mẽ này song chủ yếu nhất vẫn là do những nỗ lực của Chính Phủ
trong việc ban hành những chính sách như giảm thuế nhập khẩu và số lượng
khách hàng tăng cao nhờ có lợi nhuận từ thị trường tài chính.
Năm 2007 kết thúc với kết quả “có hậu” tạo ra một bước đà tốt cho
hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe nội địa trong năm
2008. Trong những tháng đầu năm, Chính phủ đã quyết định nâng mức thuế
nhập khẩu xe ô tô từ 60% lên 70%, điều này đã có tác động không nhỏ đến
các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và tâm lý người tiêu dùng. Mặc dù vậy,
lượng xe tiêu thụ trong quý I/2008 không bị sụt giảm. Tổng số lượng xe tiêu
thụ quý I đạt 34.095 chiếc tăng 180% so với cùng kỳ năm ngoái; đặc biệt
lượng tiêu thụ ô tô tháng 3 đã đạt mức kỉ lục (13.091 chiếc) từ trước đến nay,
tăng 193% so với cùng kỳ năm ngoái.
49
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Bảng 4: Thị phần của các thành viên thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô
Việt Nam- VAMA trong những năm gần đây
2005
Doanh nghiệp
2006
2007
Sản
Thị
Sản
Thị
Sản
Thị
lượng
phần
lượng
phần
lượng
phần
453
1%
530
1%
173
0.2%
Ford
5,040
13%
3,610
9%
5,975
7.5%
Hino
541
1%
613
2%
1,125
1%
1,110
3%
4,260
5%
Vindaco
Honda
Vidamco
4,198
11%
1,634
4%
7,580
10%
Isuzu
2,157
5%
2,344
6%
4,229
5%
Mercedes Benz
1,683
4%
1,202
3%
2,278
3%
Mekong
509
1%
597
2%
825
1%
Visuco
3,365
8%
1807
4%
2,792
4%
2,393
6%
7,358
9%
Vinaxuki
VMC
1,042
3%
659
2%
935
1%
Truong Hai
4,325
11%
5,354
13%
11,534
14%
Vinastar
4,212
11%
3,398
8%
4,595
6%
340
1%
455
0.5%
5476
7%
Vinacomin
Vinamotor
Toyota
11,813
30%
14,784
36%
20,113
25%
Samco
538
1%
478
1%
689
0.8%
Tổng
39,876
100%
40,853
100%
80,392
100%
Nguồn: Báo cáo thường niên của VAMA
Theo các báo cáo thường niên của VAMA, trong 3 năm vừa qua
Toyota luôn giữ vị trí dẫn đầu về số lượng xe tiêu thụ, với thị phần luôn lớn
50
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
hơn 25% mỗi năm. Vào tháng 1/2006, liên doanh này đã tác động mạnh đến
thị trường ô tô khi tung ra mẫu xe Toyota Innova. Từ khi ra đời đến nay, mẫu
xe này luôn giữ ngôi đầu về mức độ tiêu thụ tại Việt Nam. Ngay cả khi toàn
thị trường bị đình trệ do ảnh hưởng của xe cũ nhập khẩu vào nửa cuối năm
2006, Innova vẫn đạt doanh số 800-1000 xe mỗi tháng, chiếm tới 60% phân
khúc xe MPV/SUV. Cho đến nay, sau hai năm tồn tại trên thị trường hơn
20.000 chiếc đã được bán ra, góp phần đáng kể vào sự thành công của Toyota
Việt Nam. Cũng tương tự như thế, năm ngoái Honda Việt Nam đã đạt được
bước tiến đáng kể khi tung ra mẫu xe Honda Civic. Đây là mẫu xe đầu tiên
của Honda được lắp ráp tại Việt Nam. Với số lượng xe bán ra là 4.260 chiếc,
Honda Civic đã đạt được vị trí thứ hai trong 10 mẫu xe bán chạy nhất tại thị
trường Việt Nam năm 2007.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất xe trong nước, Trường Hải và Xuân
Kiên là hai doanh nghiệp tư nhân có bước tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong
năm 2007, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm lần lượt là 115% và
207%. Trong khi đó, các doanh nghiệp nội địa còn lại chỉ chiếm thị phần nhỏ
trên thị trường ô tô Việt Nam.
Bảng 5: Những mẫu xe bán chạy nhất năm 2007
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Nhãn hiệu
Số lượng
Toyota Innova
12,433
Honda Civic
4,260
Chevrolet Captiva
3,594
Ford Everest
3,186
Toyota Camry
3,004
Toyota Vios
2,112
Daewoo Martiz
1,872
Toyota Altis
1,132
Daewoo Lacetti
956
Daewoo Gentra 1.5
951
Nguồn: Báo cáo thường niên của VAMA
51
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Có thể thấy rằng, sản lượng tiêu thụ của các doanh nghiệp sản xuất lắp
ráp ô tô trong những năm gần đây không ngừng tăng và sẽ tiếp tục có những
sự biến động mạnh trong thời gian tới khi Chính phủ Việt Nam thực hiện các
cam kết hội nhập.
2.3.3. Tình hình xuất nhập khẩu
2.3.3.1. Nhập khẩu
Năm 2006, Chính phủ đã ra quyết định bãi bỏ việc cấm nhập khẩu ô tô
cũ vào Việt Nam, điều này mở ra một cơ hội mới cho người tiêu dùng muốn
có được những chiếc xe tốt với giá cả phải chăng. Tuy nhiên, song song với
việc bãi bỏ lệnh cấm này là việc Chính Phủ muốn bảo hộ nền sản xuất ô tô
trong nước do đó đã đề ra chính sách thuế rất cao đối với ô tô cũ. Vì thế,
người tiêu dùng dường như không có lợi gì trước hành động này. Bên cạnh
đó, vào tháng 11/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
WTO, sẽ phải thực hiện những cam kết của tổ chức này, trong đó có việc
giảm thuế nhập khẩu ô tô. Chính những lý do thuế nhập khẩu ô tô cũ quá cao,
người tiêu dùng chờ đợi Chính phủ giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết
của WTO đã khiến cho giá trị xuất khẩu năm 2006 sụt giảm và thấp nhất
trong những năm gần đây. Cả năm 2006 lượng ô tô nguyên chiếc về thị
trường chỉ khoảng 12.000 chiếc, giảm 33% so với năm 2005. Kim ngạch nhập
khẩu cũng chỉ đạt 208 triệu USD, giảm 27% so với năm 2005.
52
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Hình 7: Tình hình nhập khẩu ô tô 2005- 2007
1000
800
600
xe nguyên chiếc
linh kiện, phụ tùng
400
200
0
2005
2006
2007
Nguồn: www.gso.gov.vn
Trái ngược với năm 2006, số liệu của Cục thống kê cho biết, tổng giá
trị kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm ô tô cả năm 2007 đã tăng hơn gấp đôi
so với năm 2006 đạt con số kỷ lục 1,44 tỷ USD. Trong đó, đối với các loại xe
nhập khẩu nguyên chiếc chỉ tính riêng tháng 12/2007 đã đạt 5.000 chiếc với
giá trị 73 triệu USD. Tính cả năm 2007, lượng xe nguyên chiếc nhập khẩu về
nước là 28.000 chiếc với giá trị 523 triệu USD. So với năm 2006, tổng số tiền
dùng cho việc nhập khẩu xe nguyên chiếc của năm 2007 đã tăng trên 245%,
một con số kỷ lục. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ
này, trong đó có hai lí do được các nhà phân tích cho là nguyên nhân chính.
Thứ nhất, đối với các loại xe nhập khẩu nguyên chiếc, 2007 là năm Việt Nam
bắt đầu thực hịên một số cam kết thương mại quốc tế, trong đó đáng chú ý
nhất là việc mở cửa thị trường cho các loại xe nhập khẩu và đặc biệt là các
quyết định giảm thuế nhập khẩu. Chỉ tính riêng mặt hàng ô tô mới nguyên
chiếc, trong năm qua Bộ Tài Chính đã đưa ra ba quyết định giảm thuế kéo
mức thuế suất thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ 90% xuống còn 60% và
đây chính là đòn bẩy mạnh nhất đẩy thị trường nhập khẩu ô tô Việt Nam lên
53
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
“cao trào”. Xét trên khía cạnh giá trị, 2007 cũng là năm có số lượng xe cao
cấp, sang trọng nhập khẩu nhiều nhất, trong đó có thể kể đến hàng loạt mẫu
xe có giá trị vài trăm nghìn USD/chiếc và thậm chí 1triệu USD/chiếc.
Lý do thứ hai là, đối với các sản phẩm khác, chủ yếu là linh kiện phụ
tùng. Thị trường ô tô nội địa tăng mạnh mẽ với các biểu hiện cháy hàng và
các hãng xe phải chậm thời gian giao xe đã khiến các nhà sản xuất ô tô trong
nước phải đồng loạt nâng công suất. Do đó, lượng linh kiện, phụ tùng phụ vụ
hoạt động sản xuất lắp ráp cũng tăng theo.
Kết thúc năm 2007, một số dự báo cho rằng tổng kim ngạch nhập khẩu
ô tô năm 2008 cũng sẽ tăng mạnh. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong
3 tháng đầu năm, lượng ô tô nhập khẩu đã lên tới con số 12.000 chiếc, gần
bằng một nửa số xe nhập khẩu năm 2007. Trong số này, có 2/3 là xe mới còn
lại là xe đã qua sử dụng. Nguyên nhân của việc xe nhập khẩu ồ ạt về Việt
Nam trong ba tháng đầu năm là do tác động của chính sách thuế mới. Hầu hết
các doanh nghiệp đều cố gắng hoàn tất các hợp đồng đã ký trong tháng 3 để
không phải chịu thuế suất 70%.
Nhà cung cấp xe chủ yếu cho thị trường Việt Nam trong những năm
gần đây là Hàn Quốc với 14.200 xe nguyên chiếc vào năm 2007 (chiếm
46,8%) và 7.550 năm 2006 (chiếm 60,4%). Bên cạnh đó, Việt Nam còn nhập
khẩu xe từ các thị trường khác như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức.
2.3.3.2. Xuất khẩu
Toyota Việt Nam là liên doanh thành công nhất trong lĩnh vực xuất
khẩu so với các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô ở Việt Nam. Hiện nay,
các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của TMV là ăng ten, van điều hoà khí xả,
bàn đạp chân ga. Bên cạnh việc sử dụng thuộc dự án IMV toàn cầu (gồm 10
nước tham gia: Thái Lan, Inđônêxia, Philippin, Malaysia, Ấn Độ, Argentina,
Nam Phi, Venexuela, Đài Loan và Pakistan), những sản phẩm xuất khẩu của
TMV cũng được sử dụng cho xe Yaris, Vios, Controlia, và Hiace.
54
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Kim ngạch xuất khẩu phụ tùng hàng năm của TMV đạt trung bình 20
triệu USD/năm, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu cộng dồn lên 67.3 triệu USD
(đến hết tháng 10/2007. Sau hơn hai năm đi vào hoạt động, tổng giá trị xuất
khẩu của TMV đã đạt 45 triệu USD. Theo kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu của
TMV sẽ tiếp tục tăng: trên 25 triệu USD năm 2008, và gần 30 triệu USD
trong năm 2009.
Theo ông Murakami - tổng giám đốc của TMV cho biết công ty đang
chuẩn bị cho mở rộng nhà máy, nâng công suất lên 30.000 xe/năm vào đầu
năm 2009. Từ năm 2007-2009, đầu tư của TMV sẽ tăng thêm 50 triệu USD,
nhiều gấp đôi so với khoảng thời gian từ 2004-2006. Bên cạnh đó, để hỗ trợ
cho hoạt động xuất khẩu, TMV có những nhà cung cấp sản xuất phụ tùng ô tô
cho việc sản xuất của Toyota tại Nhật Bản và nhiều nước khác.
Bên cạnh liên doanh Toyota, vào tháng 4 năm 2006 công ty Isuzu Việt
Nam cũng đã xuất khẩu lô xe ô tô đầu tiên ra nước ngoài. 109 chiếc xe Isuzu
D-max được xuất khẩu đến ba quốc gia thuộc Nam Thái Bình Dương là New
Caledonia, Vanuatu và Samoa đã đánh dấu bước tiến mới của công nghệ lắp
ráp và sản xuất ôtô tại Việt Nam.
2.4. Thực trạng về mức độ thích ứng của ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.4.1 Thực trạng áp dụng tiêu chuẩn kĩ thuật
Tại Việt Nam, thị trường sản xuất ô tô hiện đang tăng trưởng rất nhanh.
Với 11 liên doanh lắp ráp ô tô, mức tiêu thụ trong nước tăng mạnh, tỷ lệ nội
địa hoá ngày càng cao hơn, vì vậy việc áp dụng các Bộ tiêu chuẩn ngành ô tô
tại Việt Nam có vai trò rất lớn trong chương trình nội địa hoá sản phẩm ô tô.
Đối với tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật ISO/TS 16949: 2002 được áp
dụng một cách rộng rãi thay bởi tiêu chuẩn QS 9000 trước đây vì những lợi
ích mà nó mang lại. Trước hết, các chứng nhận ISO 9001/2:1994 vốn là cơ sở
tham chiếu của QS 9000, không còn hiệu lực nữa tính đến tháng 12/2003.
55
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Nghĩa là các chứng nhận QS 9000 sau tháng 12/2003 không thể tham chiếu
đến ISO 9001:2000. Hơn nữa QS 9000 sẽ không được tái bản và kết thúc
ngày 14/12/2006. Khi các doanh nghiệp có nhu cầu chứng nhận ISO buộc
phải chuyển đổi hệ thống phù hợp ISO 9001:2000, sẽ phát sinh các tài liệu
trùng lắp giữa hai hệ thống mà không còn nghi ngờ gì về sự gia tăng chi phí
để duy trì sự trùng lắp này. ISO / TS 16949 là bộ tiêu chuẩn được xây dựng
trên cơ sở kết hợp các yêu cầu hệ thống quản lý chất lượng của Bộ tiêu chuẩn
ISO 9000, đồng thời hướng dẫn thêm và chi tiết hơn các yêu cầu kỹ thuật áp
dụng riêng cho các nhà sản xuất ô tô, xe máy và các phụ tùng thay thế có liên
quan. Do đó, từ khi tiêu chuẩn này được ban hành, hầu hết các hãng sản xuất
ô tô lớn trên thế giới như Ford, GM, Mercedes-benz áp dụng và được cấp
chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng này. Các nhà sản xuất và lắp ráp ô tô của
Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp FDI, do đó hầu hết các liên doanh này
đều được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO/TS 16949. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp sản xuất ô tô lớn trong nước như doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân Xuân Kiên hay Trường Hải đều được cấp chứng nhận
tiêu chuẩn quốc tế.
2.4.2 Thực trạng áp dụng tiêu chuẩn Euro
Kể từ ngày 1/7/2007 Việt Nam đã chính thức áp dụng tiêu chuẩn khí
thải EURO II cho các loại ô tô và xe máy mới. Riêng xe cơ giới đã qua sử
dụng được áp dụng từ ngày 1/7/2006 và ô tô tham gia giao thông được áp
dụng từ 1/7/2006 đến 1/7/2008 tuỳ địa bàn.
Hướng tới mục đích tăng cường kiểm soát và giảm thiểu khí thải độc
hại, trong năm 2007 Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã phối hợp
với Cục Đăng kiểm Việt Nam xây dựng và trình Bộ Khoa học và Công nghệ
ban hành các tiêu chuẩn về chỉ tiêu khí thải (cho động cơ đốt trong sử dụng
trên các phương tiện xe cơ giới) phù hợp với các mức chỉ tiêu của tiêu chuẩn
châu Âu – Euro (Euro 2, Euro 3, Euro 4). Đến nay, các tiêu chuẩn: TCVN
56