Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.82 KB, 112 trang )
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
tô trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh
nghiệp FDI). Cụ thể là:
Thuế nhập khẩu:
+ Trước năm 2001: Thuế nhập khẩu áp dụng đối với xe nguyên chiếc
(CBU) là 60% trong khi đó thuế nhập khẩu đối với linh kiện nhập khẩu như
IKD, CKD1 và CKD2 là từ 1-30% dựa vào dây chuyền sản xuất.
+ 2001-2005: Thuế suất đã tăng lên 100% đối với xe mới nhập khẩu
nguyên chiếc, 150% đối với xe cũ đã qua sử dụng, thuế suất trung bình đối
với CKD là 15%, cao nhất là 25%.
+ 2006: Nhằm thực hiện những cam kết của Việt Nam trong tiến trình
hội nhập, Chính phủ đã giảm mức thuế suất nhập khẩu đối với loại xe khách
xuống 90%, xe tải dưới 5 tấn và trên 45 tấn là 80%.
Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho ngành công nghiệp sản xuất ô tô trong
nước, Chính phủ đã tổ chức một buổi toạ đàm với các nước Asean khác để
đưa loại xe khách dưới 30 chỗ ngồi vào danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL),
điều này đã được các quốc gia khác trong khu vực thực hiện từ năm 2003.
+ 2007 đến nay: Trong năm 2007 Bộ Tài Chính đã ba lần điều chỉnh
mức thuế nhập khẩu đối với xe nguyên chiếc (CBU), từ mức 90% xuống 80%
vào ngày 11/1, từ 80% xuống 70% vào tháng 10 và từ 70% xuống 60% vào
ngày 16/11. Có hai nguyên nhân dẫn đến quyết định này của Bộ Tài Chính:
Thực hiện những cam kết của WTO, Bộ Tài chính muốn tạo áp lực lên các
doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe nội địa phải giảm giá xe.
Gần đây, đại diện Bộ Tài Chính Ông Trương Chí Trung đã ban hành
quyết định số 14/2008/QĐ-BTC vào ngày 11/3/2008 quy định mức thuế nhập
khẩu áp dụng đối với mặt hàng xe ô tô đã qua sử dụng chở từ 15 người trở
xuống (kể cả lái xe), và quyết định số 13/2008/QĐ-BTC sửa đổi mức thuế
suất thuế nhập khẩu ưu đãi của mặt hàng xe ô tô chở người trong biểu thuế
76
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
nhập khẩu ưu đãi. Theo đó, mức thuế mới áp dụng đối với xe nhập khẩu
nguyên chiếc (CBU) chở người là 70%. Mức thuế này cũng được áp dụng đối
với hàng hóa có mã số HS 87.03 bao gồm cả ô tô chở người kể cả xe chở
người có khoang hành lý riêng và xe đua. Bộ Tài Chính đã tuyên bố mức thuế
này sẽ được áp dụng trong những năm tới nhằm hạn chế tắc nghẽn giao thông
và thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, chưa đầy một tháng sau khi quyết định
thay đổi mức thuế mới đối với xe nhập khẩu được đưa ra, thì mới đây vào
ngày 21/4/2008 Thứ trưởng Bộ Tài Chính ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn đã ban
hành quyết định số 17/2008/QĐ-BTC về việc điều chỉnh thuế suất nhập khẩu
của một loạt mặt hàng trong đó có ô tô. Theo đó, các loại xe ô tô và các loại
xe khác có động cơ được thiết kế chủ yếu để chở người, kể cả xe chở người
có khoang hành lý riêng và xe đua…đều được nâng lên mức thuế khá cao là
83% (từ mức 70% trước đó). Bên cạnh đó, các loại xe ô tô chở từ 10 người trở
lên (kể cả lái xe) nếu không phải là những xe đặc chủng dùng trong các ngành
chuyên biệt được quy định cụ thể cũng phải chịu chung mức thuế 83%. Theo
Bộ Tài Chính, việc điều chỉnh mức thuế lần này là nhằm tham gia kiềm chế
lạm phát, giảm nhập siêu…như chỉ đạo của Chính Phủ.
Thuế tiêu thụ đặc biệt
+ Trước năm 2003: xe ô tô 24 chỗ ngồi chịu mức thuế 100%, mức thuế
tiêu thụ đặc biệt (không phân biệt xe sản xuất trong nước, xe nhập khẩu) là 60%,
và 30% tương ứng với xe dưới 5 chỗ ngồi, 6-15 chỗ ngồi và 16-24 chỗ ngồi.
+ 2003-2005: Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại xe như trên giảm
xuống còn 80%, 50% và 25%.
+ 2006 đến nay: Những mức thuế này đã giảm xuống cò n 50%,
30% và 15%.
Thuế giá trị gia tăng
+ Khi luật thuế giá trị gia tăng bắt đầu có hiệu lực vào năm 1999, VAT
không áp dụng đối với các thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng hóa.
77
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
+2003- nay: Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng hóa cũng phải chịu
thuế VAT. Do đó, mặt hàng ô tô phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cũng bị đánh
thuế 10% VAT.
Việc áp dụng các chính sách thuế nhằm bảo vệ ngành sản xuất ô tô
trong nước trong hơn 10 năm qua đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc
khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô nội địa. Các nhà sản
xuất và lắp ráp ô tô chở khách và ô tô tải đã từng bước mở rộng với sự tham
gia của rất nhiều công ty từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Do đó, số
lượng và dây chuyền sản xuất của ngành công nghiệp này ngày càng được đa
dạng hóa.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung, mỗi chiếc xe ô tô
bán tại VN thì thuế đã chiếm tới 55% - 60% trong tổng giá bán. Nếu cộng
thêm tất cả các loại giấy tờ, thủ tục thì thường phát sinh vài ngàn USD. Điều
này dẫn đến một thực trạng là giá xe ô tô ở Việt Nam trở nên đắt đỏ hơn rất
nhiều so với các chủng xe cùng loại ở các nước trong khu vực cũng như trên
thế giới. Cũng liên quan đến thuế, câu hỏi được đặt ra hàng chục năm nay là
tại sao mức thuế lại quá cao? Với các cơ quan hoạch định chính sách, đây là
điều có lẽ... không nên hỏi. Bởi lẽ theo các cơ quan này, ô tô được liệt vào
hàng tiêu dùng xa xỉ. Vì thế, VN không có chính sách khuyến khích người
dân dùng ô tô. Bằng chính sách thuế (thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
nhập khẩu - NK) các cơ quan quản lý hy vọng sẽ đảm bảo sự cân bằng trong
quản lý - NK - tiêu dùng. Cùng với việc "không khuyến khích sử dụng ô tô"
thì chính sách bảo hộ công nghiệp sản xuất ô tô trong nước cũng là một trong
những nguyên do chính của mức thuế cao này. Cụ thể, mục tiêu của bảo hộ
chính là để các DN trong nước cũng như liên doanh có thời gian để dần "nội
địa hoá" sản xuất ôtô; giảm thiểu lượng ôtô NK nguyên chiếc; hỗ trợ công
nghiệp phụ trợ là sản xuất phụ tùng, linh kiện ôtô trong nước. Tuy nhiên, dù
được bảo hộ hàng chục năm, nhưng ngành công nghiệp này đến nay vẫn trì
78
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
trệ, lẹt đẹt. Theo các chuyên gia kinh tế, với bất kỳ sự giải thích nào đều
không thể phủ nhận được công nghiệp ô tô trong nước thuộc diện nuôi không
lớn và có thể nói là thất bại.
Vì những hạn chế trên, trong thời gian tới để ngành công nghiệp ô tô
Việt Nam có thể phát triển được thì Chính phủ cần có một chính sách bảo hộ
hợp lý, cụ thể là:
Nghiên cứu giảm một cách thích hợp thuế suất thuế nhập khẩu
các loại ô tô cao cấp để xoá bỏ dần việc người Việt Nam phải mua xe với mức
giá cao như hiện nay. Đồng thời giá ô tô giảm sẽ kích thích nhu cầu mua sắm
ô tô của người dân dẫn đến lượng ô tô được tiêu thụ tăng lên, thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Nâng cao mức thuế nhập khẩu các loại xe phổ thông và xe
chuyên dụng với mức thích hợp để khuyến khích sản xuất trong nước như xe
cứu hoả, xe cứu thương…
Cùng với chính sách thuế nhập khẩu, các cơ quan chức năng cần sớm
phối hợp nghiên cứu đưa ra các chính sách thuế khác tạo điều kiện cho ngành
công nghiệp ô tô nội địa vừa có thể phát triển song song với việc cạnh tranh
được trên trường quốc tế.
3.2.1.2 Có chính sách về công nghệ hiện đại, tiên tiến và thích hợp
Tiếp thu công nghệ mới
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước cần có dây
chuyền công nghệ hiện đại, trình độ cao, tuy nhiên không phải vì thế mà
chuyển giao công nghệ một cách bừa bãi. Thiết bị chuyển giao phải đồng bộ,
tránh tình trạng máy móc thiết bị chuyển giao không cùng loại hoặc được
nhập từ nhiều nước khác nhau làm việc vận hành máy không ăn nhập, ảnh
hưởng đến tiến độ sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Đối với các sản phẩm xe được nhập khẩu, Nhà nước cần phối hợp chặt
chẽ với Cục đo lường chất lượng để thẩm định chất lượng của xe như có đáp
79
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
ứng tiêu chuẩn thế giới, tiêu chuẩn an toàn, tiêu chuẩn khí thải hay không.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp trong nước, chúng ta cần tổ chức sản xuất
theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISo 9001, ISO 9002… Các doanh nghiệp
cũng cần phải đầu tư vào việc nâng cao trình độ công nghệ, đầu tư nghiên cứu
sản phẩm mới…
Tiết kiệm nhiên liệu, bảo vệ môi trường
Việt Nam hiện nay đang áp dụng tiêu chuẩn Euro II cộng với xăng dầu
kém chất lượng là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi
trường, ô nhiễm khí thải. Trong thời gian tới, nhằm đáp ứng được yêu cầu hội
nhập đồng thời cạnh tranh với các dòng sản phẩm nhập khẩu, chắc chắn
chúng ta sẽ tiếp tục áp dụng các tiêu chuẩn khí thải Euro III và Euro IV. Dù
sớm hay muộn, áp dụng tiêu chuẩn Euro để kiểm soát lượng khí thải là nhiệm
vụ cần thiết bởi những ảnh hưởng về môi trường và sức khỏe con người là hết
sức to lớn. Để có thể khắc phục được tình trạng này, trong thời gian tới Chính
phủ cần có những biện pháp nhằm giảm tối đa hàm lượng lưu huỳnh, sắt,
mangan và các chất gây hại môi trường; khuyến khích các nhà chế tạo xe có
kế hoạch sản xuất và đưa ra công nghệ động cơ tiên tiến, cùng nhiều kế hoạch
thiết thực: áp dụng công nghệ lọc khí thải cho xe chạy xăng ; loại bỏ xe quá
niên hạn; truyền thông đi vào lòng nhân dân; phân địa bàn sử dụng nhiên liệu
chất lượng cao. Tất cả các loại xăng không chì của Việt Nam bán trên thị
trường phải đạt tiêu chuẩn TCVN 6776. Bên cạnh đó, quản lý chất lượng
nhiên liệu cho xe cơ giới cần hệ thống luật hợp lý, với những tiêu chuẩn chất
lượng cụ thể, đồng thời giám sát chặt chẽ hệ thống phân phối. Cục Đăng kiểm
Việt Nam cần xây dựng nhiều chiến lược thiết thực nhằm nâng cao chất lượng
xăng dầu cho xe cơ giới tham gia lưu thông. Xây dựng chiến lược nhiên liệu
lâu dài, có lộ trình nâng cao tiêu chuẩn nhiên liệu và phụ thuộc lộ trình tiêu
chuẩn khí thải; tiêu chuẩn môi trường và hội nhập kinh tế (WTO, AFTA,
TBT…). Đẩy mạnh hoạt động Monitoring xăng dầu: lấy mẫu phân tích, thanh
80
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
tra, quản lý thị trường. Xây dựng những chế tài mạnh với nhiên liệu “dơ bẩn”,
những hành động gian lận trong kinh doanh xăng dầu, đồng thời có chính
sách ưu đãi với những nhiên liệu tốt, sạch, mới nhằm bảo vệ môi trường cho
toàn thể nhân dân, đặc biệt các chủ phương tiện các lái xe.
Ngoài ra, hiện nay trên thế giới dòng xe Hybrid với ưu điểm tiết kiệm
nhiên liệu, thân thiện với môi trường đang dần chiếm lĩnh thị trường, để có
thể thích ứng với xu hướng này, Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm về
chuyển giao công nghệ, đầu tư nguồn vốn thích đáng.
3.2.1.3 Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý
Để giúp cho các doanh nghiệp có khả năng thích ứng dần với môi trường
cạnh tranh, Nhà nước cần có các chế độ ưu đãi đầu tư hợp lý, cụ thể như:
Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính để các doanh
nghiệp sản xuất ô tô, phụ tùng linh kiện có thể thuê đất, xem xét giảm giá,
thậm chí có thể miễn tiền thuê đất trong vòng từ 2 đến 5 năm đối với các dự
án trọng điểm.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô về chi phí giải
phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ban đầu (điện, nước, thông
tin liên lạc…). Điều này có thể giúp doanh nghiệp triển khai nhanh các hạng
mục đầu tư, trong thời gian ngắn nhất có thể đi vào tiến hành sản xuất.
Có chính sách cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian hợp
lý để khuyến khích các doanh nghiệp này đầu tư sản xuất cho ra đời những
sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, phù hợp với điều kiện Việt Nam, kích
thích các ngành công nghiệp khác cùng phát triển.
3.2.1.4 Cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng
Áp dụng các tiêu chuẩn khí thải Euro ngoài việc cần phải cải thiện
nguồn nhiên liệu còn phải đáp ứng được tiêu chuẩn về hệ thống đường sá chất
lượng tốt. Trong khi đó tính đến năm 2000, Việt Nam có tổng cộng 210,447
km đường giao thông bao gồm 169,005 km đường nông thôn, hầu hết đều
81
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
trong tình trạng kém chất lượng. Thêm vào đó, trong khi trên thế giới tỷ lệ
diện tích phục vụ giao thông tĩnh như gara, bãi đỗ xe… ở các đô thị khoảng
7% thì ở nước ta chỉ có 0,7%. Sự tăng trưởng nhanh trong thu nhập của người
tiêu dùng tạo ra nhu cầu cao về mặt hàng xa xỉ ô tô, gây nên tình trạng tắc
nghẽn giao thông, tai nạn, ô nhiễm môi trường đặc biệt là ở hai thành phố lớn
Hà Nội Và TP Hồ Chí Minh. Tuy nhiên các biện pháp tạm thời và không dự
tính trước thường đem lại hiệu quả ngược. Một sự phối hợp hài hoà giữa các
chính sách ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cần được thực hiện để giải quyết
những tồn tại này. Trong ngắn hạn, các biện pháp như đảm bảo việc tuân thủ
chặt chẽ pháp luật giao thông, quản lý luồng chảy giao thông tốt hơn, năng
động hoá đội ngũ cảnh sát giao thông cần được thực hiện. Về mặt trung hạn,
các công việc như xây dựng nhiều tuyến xe buýt hơn, mở rộng các tuyến phố
chính, nâng cấp ngã tư là cần thiết. Trong dài hạn, cơ sở hạ tầng giao thông
như cầu, đường hầm, đường cao tốc mới, đường vòng, xe điện ngầm cần được
xây dựng. Để thực hiện tốt các chính sách này, Việt Nam cần có một bản quy
hoạch giao thông thật tốt.
Một khi cơ sở hạ tầng giao thông tốt thì nó sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong dài hạn.
3.2.1.5 Xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực
Con người luôn là chủ thể chính trong mọi hoạt động. Ngày nay, con
người có trí tuệ, có tài tổ chức quyết định sự thắng thế trong cạnh tranh của
mỗi doanh nghiệp, mỗi sản phẩm. Vì vậy, việc đào tào nguồn nhân lực có
chất lượng cao là một trong những điều kiện cơ bản để phát triển các ngành
kinh tế trong đó có ngành công nghiệp ô tô.
Công nghiệp ô tô luôn tiếp cận với những thành tựu khoa học công
nghệ mới nhất trong các lĩnh vực điện tử, tự động hoá, nhiên liệu…đòi hỏi
cán bộ trong ngành phải được trang bị, cập nhật kiến thức mới để tiếp thu
công nghệ mới và tự đổi mới nâng cao trình độ. Trong lĩnh vực sản xuất và
82
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
lắp ráp ô tô của Việt Nam hiện nay đã bộc lộ sự thiếu hụt về số lượng và cả
chất lượng đội ngũ quản lý, công nhân kỹ thuật.
Để đào tạo nguồn nhân lực đông đảo, có trình độ học vấn và kỹ năng
nghiên cứu cao, Chính phủ cần cân đối nguồn nhân lực theo trình độ, tránh
tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, cân đối theo giới tính và ngành nghề. Để đáp
ứng yêu cầu trên, cần có sự phối hợp giữa các Bộ, Ban, Ngành trong lĩnh vực
đào tạo về các mặt: các phòng thí nghiệm, các trung tâm nghiên cứu, chương
trình đào tạo… Các Bộ, Ban, Ngành liên quan cần có kế hoạch đào tạo lại lực
lượng cán bộ kỹ thuật hiện có cho phù hợp với đòi hỏi của tình hình mới.
3.2.1.6 Xây dựng chiến lược định vị Việt Nam trong mạng lưới sản xuất Đông Á
Ngành công nghiệp ô tô Đông Á được nhìn nhận như là một nhà máy
sản xuất lớn, trong đó mỗi quốc gia đóng một vai trò nhất định và đóng góp
vào “chuỗi giá trị”. Trong khu vực này, việc nâng cao năng lực công nghiệp
một cách độc lập với các quốc gia láng giềng là một việc không thực tiễn và
không hiệu quả. Trung Quốc và ASEAN4 vừa là đối thủ vừa là đối tác tiềm
năng trong sản xuất. Việt nam không nên cạnh tranh trực tiếp với các quốc gia
này trong những ngành mà họ đã khẳng định ưu thế vượt trội. Thay vào đó,
Việt Nam nên phân tích lợi thế so sánh động của mình, xây dựng tích tụ công
nghiệp xoay quanh lợi thế này, và tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực
để bổ sung và nâng cao năng lực của các quốc gia khác. Khi Việt Nam lớn
mạnh, năng lực sản xuất Đông Á với tư cách là một nhà máy của thế giới
cũng sẽ được mạnh thêm.
Do đó, những biện pháp nhằm định vị ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam trong mạng lưới sản xuất khu vực trong thời gian tới đó là:
Thứ nhất, Việt Nam nên trở thành một cơ sở xuất khẩu cho một số loại
linh phụ kiện. Việc sản xuất nên ở mức độ quy mô lớn và ban đầu thực hiện
xuất khẩu 100% bởi vì cầu về linh phụ kiện nội địa hiện tại quá nhỏ. Tuy
83
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
nhiên, sau một thời gian, linh phụ kiện cũng có thể cung cấp cho thị trường
nội địa khi mà thị trường nội địa được mở rộng.
Thứ hai, Việt Nam nên lắp ráp một số chủng loại xe mà nhà máy mẹ ở
Thái Lan hay ở nơi khác không sản xuất, đặc biệt là những loại xe đòi hỏi
việc sản xuất trên dây chuyền nhỏ và sự thay đổi thường xuyên do đầu cơ (bởi
vì ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đang phát triển trong những điều kiện
như vậy). Các công ty đa quốc gia sẽ quyết định việc lắp ráp chủng loại nào ở
Việt nam nhưng chính phủ Việt nam có thể chủ động khuyến khích và cộng
tác với các công ty đa quốc gia để xúc tiến công việc này.
3.2.2 Nhóm giải pháp vi mô
3.2.2.1 Nâng cao trình độ công nghệ
Hiện nay, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong
nước còn lạc hậu, các liên doanh mặc dù được chuyển giao công nghệ từ các
công ty mẹ ở nước ngoài nhưng đều là những công nghệ cũ. Vì thế, để tránh
nguy cơ tụt hậu trong khi hội nhập cần có sự đầu tư mạnh về nguồn vốn để
phát triển công nghệ bằng các giải pháp như: trích 2-5% doanh số bán ra cho
nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sản phẩm; hình thành các tổ chức
dịch vụ chuyển giao công nghệ bao gồm tài liệu thiết kế, các bí quyết về công
nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới; ưu tiên nguồn việc trợ nước
ngoài cho phát triển khoa học công nghệ.
Được đầu tư kịp thời, cùng với các chính sách bảo hộ hợp lý, chắc chắn
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể thích ứng và có khả năng cạnh tranh khi
hội nhập hoàn toàn vào khu vực cũng như thế giới.
3.2.2.2 Liên kết, sáp nhập các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô
Trên thị trường ô tô thế giới trong thời gian vừa qua, xu hướng sáp
nhập các hãng ô tô lớn phát triển rất rầm rộ. Mặc dù hoạt động mua bán - sáp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam chưa phát triển, nhưng thực tế đã chứng minh
chúng ta hoàn toàn có thể tham gia một cách chủ động vào xu thế này thông
84
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
qua các thương vụ mua bán - sáp nhập trong các lĩnh vực khác thời gian vừa
qua. Nhắc đến mua bán - sáp nhập, chúng ta thường nghĩ đến việc các doanh
nghiệp Việt Nam bị các doanh nghiệp nước ngoài "thâu tóm", tuy nhiên thực
tế sáp nhập không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các quốc gia khác
nhau, mà ngay chính trong một nước sáp nhập cũng diễn ra ở các doanh
nghiệp cũng ngành nghề. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam không phải là
ngoại lệ.
Các nhà sản xuất có vốn đầu tư nhỏ và công suất thấp nên xem xét việc
sáp nhập hay liên kết với nhau tạo ra sự chuyên môn hoá trong sản xuất. Nếu
việc hợp tác được tiến hành giữa các doanh nghiệp thì việc chia sẻ đầu tư các
yếu tố đầu vào như lao động, máy móc, nhà xưởng, phụ tùng, linh kiện…sẽ
giảm rất nhiều gánh nặng cho doanh nghiệp và năng lực sản xuất của các
thành viên cũng có thể đáp ứng được các đơn hang lớn hơn. Ngoài ra xét dưới
góc độ tổng thể nền kinh tế, liên kết kinh doanh cả đầu vào, đầu ra cũng như
liên kết ngành sẽ làm giảm đáng kể chi phí vận chuyển, tăng khả năng cạnh
tranh cho các mặt hàng ô tô Việt Nam.
3.2.2.3 Hoàn thiện mạng lưới bán hàng và hệ thống phân phối
Từ xưa đến nay, các nhà sản xuất ô tô Việt Nam thường bán các sản phẩm
của mình thông qua một hệ thống đại lý riêng của mình, tuy nhiên trên thế giới
hiện nay, xu hướng phân phối ô tô của mình qua kênh phân phối rộng lớn
(mega-dealerships), tức là trưng bày và bán tập trung nhiều sản phẩm ô tô của
nhiều hãng khác nhau. Ngay khi thiết lập được các trung tâm này, nhiều sản
phẩm ô tô của các hãng được bày bán cùng nhau, sự cạnh tranh sẽ gia tăng bởi vì
khách hàng có cơ hội để so sánh các mẫu xe của các hãng được bày bán. Do đó
quyết định của người tiêu dùng sẽ dựa vào những tính năng của sản phẩm chứ
không phải dựa vào các chiến thuật bán hàng của từng hãng.
85
Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
3.2.2.4 Cải thiện chất lượng dịch vụ sau bán hàng
Chế độ hậu mãi hấp dẫn cũng là một trong những yếu tố thu hút khách
hàng đến với doanh nghiệp. Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam trong thời gian
qua hầu hết đã thực hiện tốt các chế độ hậu mãi: bảo hành sản phẩm trong
thời gian một năm hay theo số km đường nhất định, trong thời gian bảo hành
được bảo dưỡng xe miễn phí, mua phụ tùng thay thế với giá ưu đãi, khuyến
mãi một số đồ trang trí nội thất xe… Tuy nhiên, do mặt hàng ô tô là mặt hàng
sử dụng mang tính chất lâu bền, giá trị cao, nên bên cạnh các chế độ hậu mãi,
chúng ta cần mở rộng và nâng cấp hệ thống sửa chữa. Do đó, cùng với việc
tăng lượng xe bán ra, các doanh nghiệp cũng cần phải tính đến việc phải xây
dựng các xưởng sửa chữa xe với trang thiết bị đồng bộ, hiện đại để đáp ứng
yêu cầu ngày càng tăng về dịch vụ sửa chữa của khách hàng. Các xưởng sửa
chữa nên đặt ở những vị trí có điều kiện giao thông thuận lợi, tiện cho khách
hàng trong việc di chuyển.
3.2.2.5 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Tại Việt Nam, những sự yếu kém trong các ngành công nghiệp đều đổ
lỗi cho nguyên nhân thiếu hụt về nguồn tài chính dùng cho đầu tư thiết bị
công nghệ. Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp ở Nhật Bản thì cho rằng nguồn
nhân lực có chất lượng cao trong các ngành công nghiệp lại có vai trò quan
trọng hơn nhiều so với thiết bị công nghệ cao (Theo báo cáo diễn đàn phát
triển Việt Nam, 2006). Nguồn nhân lực chất lượng cao là một yếu tố cần thiết
trong việc nâng cao năng lực sản xuất so với mức độ mà các doanh nghiệp
của Thái Lan và Malaysia cũng như để đối phó một cách hiệu quả với những
thử thách từ các doanh nghiệp Trung Quốc.
Các doanh nghiệp nên chú trọng đào tạo các kỹ sư, công nhân có trình
độ tay nghề vững vàng; đồng thời có chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ từ
những kiến thức cơ bản đến những kiến thức chuyên ngành, tránh tình trạng
đào tạo tràn lan, vừa tốn tiền vừa không hiệu quả. Các doanh nghiệp phải có
86