1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Chương II: THỰC TRẠNG THÍCH ỨNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.82 KB, 112 trang )


Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



hành tại Quảng trường Ba Đình. Tuy nhiên, sau sự kiện này nước ta không

sản xuất thêm nữa do hạn chế về năng lực sản xuất.

2.2.2. Thời kì từ năm 1975 đến năm 1991

Từ năm 1975, Việt Nam đã giành được độc lập và bắt đầu xây dựng

nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, vì thế nhu cầu về xe ô tô cho sự phát triển các

ngành kinh tế của nước ta là rất lớn. Chúng ta nhập khẩu ô tô chủ yếu từ Liên

Xô, hoặc nhập khung gầm có gắn động cơ (sát xi) từ Cộng hoà dân chủ Đức

(ô tô IFA-W50L) để tự đóng thành xe khách từ 46 chỗ đến 50 chỗ ngồi. Tuy

nhiên, sau đó nhiều xí nghiệp phải ngừng sản xuất do không có nguồn cung

cấp sát xi nữa. Nguyên nhân là do vào thời kì này tính chất kế hoạch hoá mất

dần tác dụng, sự bao cấp đầu vào đầu ra cho các nhà máy ô tô không còn

được như trước, nhu cầu về phụ tùng cũng hạn chế. Kết quả là các nhà máy

của chúng ta xuống cấp nghiêm trọng, nhiều cơ sở sản xuất như: Nhà máy ô

tô Hoà Bình, Ba Đình (Hà Nội), Nam Hà, Hải Phòng, Đà Nẵng…phải tạm

thời thay đổi mặt hàng.

Thời gian này không có doanh nghiệp nào trong nước đầu tư dây

chuyền sản xuất, lắp ráp ô tô đồng bộ. Nhiệm vụ chính của các nhà máy sửa

chữa, trung đại tu các loại phương tiện ô tô, xe máy nhập khẩu. Một số nhà

máy có năng lực gia công cơ khí mạnh của nước ta thời kì đó như: Nhà máy

cơ khí trung tâm Cẩm Phả, Nhà máy đại tu ô tô Cẩm Phả (trung đại tu ô tô tải

nặng Benlaz, công suất 500xe/năm), Công ty cơ khí Cẩm Phả (chuyên đại tu

xe tải nặng của Nhật Bản), Công ty cơ khí 3/2. Các công ty này đều không

được đầu tư công nghệ lắp ráp ô tô.

Năm 1986, Đại hội Đảng VI đã mở ra thời kì mới cho nền kinh tế Việt

Nam. Đảng và Chính phủ đã nhận thấy những yếu kém của ngành công

nghiệp ô tô thể hiện ở các khía cạnh như trình độ vốn, công nghệ và nguồn

nhân lực, nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã nhận thức được vị trí và vai trò

quan trọng của ngành công nghiệp ô tô đối với sự phát triển của đất nước. Do



35



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



đó, từ Đại hội này Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế,

làm bạn với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở hợp tác cùng có lợi. Nhờ

các chính sách về ưu đãi đầu tư và các chính sách hỗ trợ phát triển ngành

công nghiệp ô tô mà thời kì này một số nhà sản xuất ô tô lớn trên thế giới và

trong khu vực đã đến Việt Nam để tìm hiểu về thị trường, môi trường kinh

doanh…Mặc dù các nhà đầu tư này chưa có các chương trình dự án đầu tư cụ

thể nhưng có thể coi đây là nền tảng cho việc thành lập các liên doanh sản

xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

2.2.3. Thời kì từ năm 1991 đến nay

Năm 1991 là một dấu mốc quan trọng trong sự hình thành và phát triển

của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam với việc ra đời 02 liên doanh lắp ráp ô

tô đầu tiên ở Việt Nam là MêKông và Liên doanh sản xuất ô tô Hoà Bình

(VMC- VietNam Motor Corporation). Hiện nay, nước ta đã có 12 doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cộng với hơn 160 doanh nghiệp nội

địa sản xuất, lắp ráp, và sửa chữa ô tô, sản xuất thiết bị và phụ tùng. Trong đó

có khoảng gần 20 cơ sở sản xuất, lắp ráp ô tô, gần 20 cơ sở sản xuất thân xe

và rơ moóc và hơn 60 cơ sở tham gia chế tạo phụ tùng cho ô tô.

2.2.3.1. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài





Công ty Toyota Việt Nam (TMV)







Công ty TNHH Ford Việt Nam







Công ty ô tô GM Daewoo Việt Nam (VIDAMCO)







Công ty liên doanh Mercedes-Benz Việt Nam







Công ty ô tô Isuzu Việt Nam







Công ty Việt Nam Suzuki (VISUCO)







Công ty Liên doanh Hino Motors Việt Nam







Công ty liên doanh sản xuất ô tô Hoà Bình (VMC)







Công ty Honda Việt Nam (HVC)







Công ty ô tô Mêkông



36



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế







Công ty liên doanh sản xuất ô tô Ngôi sao (Vinastar)







Công ty ô tô Vietindo Daihatsu



2.2.3.2. Doanh nghiệp trong nước

a.



Các doanh nghiệp nhà nước



Các doanh nghiệp nhà nước với rất nhiều lợi thế về cơ sở vật chất sẵn

có, đặc biệt có sự hỗ trợ, bảo hộ từ phía Chính Phủ đã đạt được những bước

phát triển đáng kể trong thời kỳ đổi mới.

Những điển hình của khối doanh nghiệp trong nước bao gồm: Tổng Công

ty công nghiệp ô tô Việt Nam, Tổng Công ty Than và khoáng sản Việt Nam

(Vinacomin), Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp, Tổng Công ty

cơ khí giao thông vận tải Sài Gòn. Các sản phẩm chủ yếu của các doanh nghiệp

trong nước là xe khách, xe tải các hạng, các thiết bị phụ tùng ô tô.

b.



Các doanh nghiệp tư nhân



Trong những năm gần đây, nền công nghiệp ô tô Việt Nam đã chứng

kiến những bước phát triển vượt bậc, đóng góp vào những thành công đó

không thể không kể đến thành phần kinh tế tư nhân với sự góp mặt của các

doanh nghiệp tư nhân, họ đã tạo dựng cho mình những thương hiệu nổi tiếng

trên thị trường Việt Nam. Trong số những doanh nghiệp đó, tiêu biểu là hai

doanh nghiệp Công ty Xuân Kiên và Công ty ô tô Trường Hải.

2.2.3.2. Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (Vietnam Motors

Association- VAMA)

Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam là một tổ chức phi chính phủ,

phi chính trị và phi lợi nhuận, được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện của

các nhà sản xuất ô tô được cấp giấy phép tại Việt Nam. Mục đích thành lập

của Vama là khuyến khích sự phát triển và tiến bộ của ngành công nghiệp ô tô

Việt Nam nói riêng và góp phần vào sự phát triển kinh tế và sự thịnh vượng

của cộng đồng nói chung, đại diện và bảo vệ quyền hạn và lợi ích hợp pháp

của người lao động cũng như người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp



37



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



thành viên của Hiệp hội, bảo đảm và cải thiện quyền hạn và lợi ích hợp pháp

của người sử dụng xe trên các phương diện chất lượng, độ tin cậy, sự an toàn,

việc bảo vệ môi trường, dịch vụ và bảo hành; tranh thủ và ứng dụng những

thành tựu tiến bộ nhất của công nghệ ô tô cho ngành công nghiệp ô tô Việt

Nam, tham gia vào các chương trình nghiên cứu và phát triển về ô tô cũng

như việc bảo đảm bảo vệ tốt môi trường tại Việt Nam.

Hiện nay hiệp hội gồm 18 thành viên bao gồm 12 doanh nghiệp FDI, tổng

sản lượng xe sản xuất năm 2007 của các thành viên hiệp hội đạt 80.392 xe.

Bảng 3: Danh sách 18 thành viên VAMA

Stt



Tên nhãn hiệu



Tên công ty



1



Công ty TNHH Ford Vietnam



Ford



2



Công ty Liên doanh Hino Motors Vietnam



Hino



3



Công ty TNHH Isuzu Vietnam



Isuzu



4



Công ty ô tô Mekong



Fiat,



Ssanyong,



Iveco

5



Công



ty



Liên



doanh



Mercedes-Benz Mercedes-Benz



Vietnam

6



Công ty TNHH ô tô Toyota Vietnam



Toyota



7



Công ty sản xuất ô tô Daihatsu Vietindo Daihatsu

(Vindaco)



8



Công ty ô tô Vietnam Daewoo (Vidamco)



Daewoo,



GM-



Daewoo

9



Công ty Liên doanh ô tô Hòa Bình (VMC)



Kia, Mazda, BMW



10



Công ty Vietnam Suzuki(Visuco)



Suzuki



11



Công ty Liên doanh sản xuất ô tô Ngôi sao Mitsubishi

(Vinastar)



12



Tổng công ty cơ khí GTVT Sài Gòn (Samco) Samco



38



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



13



Công ty ô tô Trường Hải



Kia, Daewoo, Foton,

Thaco



14



Tổng công ty máy động lực & máy nông Veam

nghiệp VN (Veam)



15



Tổng công ty Công nghiệp than & khoáng Kamaz, Kraz

sản VN (Vinacomin)



16



Xí nghiệp tư doanh Xuân Kiên



Vinaxuki



17



Tổng công ty công nghiệp ô tô



Vinamotor,

Transinco



18



Công ty TNHH Honda Vietnam



Honda



Nguồn: www.vama.org.vn

2.2 Cơ hội và thách thức của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong tiển

trình hội nhập

2.2.1 Tiến trình hội nhập của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của ngành công nghiệp ô

tô Việt Nam được nhìn nhận bằng quá trình tham gia các tổ chức, diễn đàn

kinh tế thế giới và khu vực cũng như những Hiệp định thương mại song

phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết và cam kết thực hiện. Tiến trình

hội nhập của Việt nam được trình bày ở những điểm sau:

2.2.1.1 Cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA)

Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực từ

ngày 10/12/2001. Tại phụ lục B1 của Hiệp định này, lịch trình loại bỏ hạn chế

số lượng nhập khẩu ô tô chở 10 người trở lên kể cả lái xe là 5 ngày kể từ ngày

Hiệp định có hiệu lực. Như vậy, vào ngày 10/12/2006 Việt Nam sẽ không

được hạn chế số lượng nhập khẩu loại xe này từ Hoa kỳ.

Tại Phụ lục D về lịch trình bãi bỏ hạn chế về quyền kinh doanh nhập

khẩu và quyền phân phối sản phẩm công nghiệp quy định đối với ô tô chở 10



39



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



người trở lên kể cả lái xe, xe vận tải hàng hoá, xe chuyên dụng; khung gầm đã

gắn động cơ, thân xe (kể cả cabin), xe tải tự hành trong nhà máy, kho tàng

tương ứng là 6 và 7 năm.

Như vậy, thời gian bảo hộ ngành công nghiệp ô tô trong nước theo

BTA chỉ được đến năm 2006 (đối với việc nhập khẩu), 2007 (đối với việc

kinh doanh nhập khẩu), và năm 2008 (đối với hoạt động phân phối).

2.2.1.2 Cam kết trong khu vực Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)

Hiện nay, khu vực Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN gần như đã được

thành lập. Các quốc gia thành viên ASEAN đã tạo ra được bước tiến đáng kể

trong việc giảm thuế quan trong nội bộ khối thông qua chương trình ưu đãi thuế

quan có hiệu lực chung (CEPT). Hơn 99% các sản phẩm trong danh mục giảm

thuế (IL) của CEPT của các nước ASEAN-6 bao gồm: Bruney, Inđônêxia,

Malaysia, Philipin, Singapore và Thái Lan đã giảm xuống còn 0-5%.

Các thành viên mới của ASEAN như Campuchia, Lào, Myanmar và

Việt Nam là những nước tham gia muộn hơn, nên thời hạn để giảm thuế các

mặt hàng xuống còn 5% đối với Việt Nam là năm 2006, Myanmar và Lào

năm 2008, Campuchia vào năm 2010. Mức thuế quan 0% cho các nước

ASEAN-6 được thực hiện trước năm 2010, còn đối với Việt Nam, Lào,

Myanmar, và Campuchia là trước năm 2015, một số mặt hàng nhạy cảm có

thể gia hạn trước năm 2018.

Riêng với mặt hàng ô tô, hiện nay, tất cả các loại xe ô tô chở 10 người

trở lên kể cả lái xe, xe ô tô và các loại xe khác có động cơ được thiết kế chủ

yếu để chở người, kể cả xe chở người có khoang hành lý riêng và ô tô đua đều

nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) của Việt Nam thực hiện

CEPT/AFTA. Tuy nhiên, do Việt Nam đưa ô tô vào danh sách GEL nên sẽ

bất lợi vì không được tham gia chương trình Hợp tác công nghiệp ASEAN

(AICO). Theo đó, AICO buộc CEPT đạt mức thuế 0-5% cho một mặt hàng

thương mại giữa hai hay nhiều nước, nhưng chỉ áp dụng cho các mặt hàng



40



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



không ở trong danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL). Và để hưởng lợi từ kế

hoạch AICO, Việt Nam phải bỏ ô tô khỏi danh sách GEL và đưa vào danh

mục loại trừ tạm thời- TEL, hoặc danh mục cắt giảm- IL trong thời gian tới.

2.2.1.3 Cam kết trong khu vực thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc

(ACFTA)

Vào ngày 12/6/2006, Bộ tài chính đã ban hành quyết định 35/2006/QDBTC về việc ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi

đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại hàng hoá ASEANTrung Quốc. Theo đó 9.133 mặt hàng sẽ tham gia thực hiện cắt giảm thuế kể từ

1/1/2006 với mức thuế suất ACFTA theo đúng lộ trình giảm thuế của năm 2006

đã được quy định tại Hiệp định Thương mại hàng hoá và Biên bản ghi nhớ.

Theo báo cáo của Bộ tài chính về sự tác động của ACFTA đối với

ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, lộ trình cắt giảm thuế như sau:





Xe ô tô (mã số 8702, 8703), ngoài trừ các loại xe buýt được sử



dụng trong ngành hàng không, và những loại xe chuyên dùng trong HSL, vẫn

duy trì mức thuế 100% (MFN) cho đến năm 2017 và giảm xuống 50% vào

năm 2018.





Các loại xe tải (mã số 8704):







Dưới 5 tấn: giảm dần từ 100% và xuống 45% vào năm 2014







Từ 5 đến 10 tấn: giảm dần từ 60%, xuống 30% vào năm 2012







Từ 10 đến 20 tấn: giảm dần từ 30% xuống còn 5% vào năm 2013



và 0% vào năm 2018

2.2.1.4 Cam kết với Tổ chức thương mại thế giới WTO

Trở thành thành viên chính thức của WTO vào ngày 7/11/2006, Việt

Nam phải tuân thủ theo nguyên tắc không phân biệt đối xử đối với:





Hàng hoá, dịch vụ, đầu tư







Quyền nhập khẩu hàng hoá, quyền kinh doanh







Quyền về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô



41



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế







Xoá bỏ lệnh cấm nhập khẩu ô tô cũ đã qua sử dụng hợp pháp







Xoá bỏ cơ chế hai giá từ 31/12/2005



Trong năm 2007, Bộ tài chính đã ba lần điều chỉnh thuế nhập khẩu ô tô

từ 90% xuống 80% và 60% để thực hiện những cam kết của WTO. Sự điều

chỉnh này có tác động đáng kể lên thị trường ô tô Việt Nam, số lượng xe nhập

khẩu tăng mạnh. Trong một vài năm tới, những tác động của WTO lên thị

trường ô tô Việt Nam sẽ không còn mạnh mẽ như thời kỳ đầu, vì bước đầu

Việt Nam chưa giảm thuế nhiều và chưa có nhiều sự thay đổi về thuế tiêu thụ

đặc biệt và thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, các nhà sản xuất ô tô nước ngoài

lại có thể tự do đầu tư vào Việt Nam mà không cần phải thành lập liên doanh

với các nhà sản xuất trong nước. Điều này có tác động mạnh mẽ đến các nhà

sản xuất ô tô nội địa trong việc cạnh tranh về thị phần. Hiện tại, có rất nhiều

nhà sản xuất ô tô Trung Quốc có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.

2.2.2 Cơ hội và thách thức của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong tiến

trình hội nhập

2.2.2.1 Cơ hội đối với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển

cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp ô tô Việt Nam nói

riêng. Đó là tạo ra những điều kiện thuận lợi để tiếp cận nhanh chóng các

nguồn vốn đầu tư, công nghệ hiện đại và thị trường toàn cầu nhằm thúc đẩy

phát triển. Trong đó, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam cũng có những cơ hội

phát triển rất lớn, đó là:

Thứ nhất, với số dân khoảng 84 triệu người và nền kinh tế đang tăng

trưởng ở mức cao, Việt Nam được xem là một trong những nền kinh tế năng

động và tốc độ phát triển cao nhất Đông Nam Á, và là một thị trường tiêu thụ

rộng lớn đầy tiềm năng.

Thứ hai, quá trình tự do hoá thương mại hiện đang trở thành yếu tố

quan trọng ảnh hưởng đến định hướng cũng như chiến lược phát triển ngành



42



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



công nghiệp ô tô Việt Nam. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các

sáng kiến thương mại tự do khác đang thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia

xem xét lại chiến lược kinh doanh nói chung và việc tái phân bổ năng lực sản

xuất nói riêng, gồm những nội dung như: Thiết lập một công ty mẹ trong khu

vực, Xây dựng một mạng lưới các nhà máy phục vụ cho công ty mẹ, tập trung

sản xuất, khai thác điểm mạnh cốt lõi của mỗi nước và khai thác các sản phẩm

và dịch vụ khác từ các nước khác. Do đó, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội trở

thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới sản xuất của khu vực.

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại cho Việt Nam cơ hội hợp

tác phân công lao động, hợp tác sản xuất phụ tùng, linh kiện ô tô, tiếp cận

được công nghệ mới trong sản xuất và lắp ráp ô tô đồng thời nâng cao tay

nghề của công nhân cũng như trình độ quản lý của các doanh nghiệp.

Cuối cùng đó là sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

không thể thiếu sự hợp tác của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

với những tiềm năng to lớn về nguồn vốn và công nghệ. Hội nhập kinh tế

quốc tế sẽ mang lại cho Việt Nam cơ hội để tiếp cận những nguồn lực đáng

quý này. Hiện nay, Việt Nam đang được đánh giá là điểm hấp dẫn thu hút đầu

tư trên thế giới. Với nền tảng đó chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào viễn cảnh

tươi sáng của ngành công nghiệp ô tô.

2.2.2.2 Thách thức đối với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Nằm trong khu vực kinh tế năng động nhất thế giới – khu vực Đông Á

và đứng trước xu thế toàn cầu hoá, có thể nói ngành công nghiệp ô tô Việt

Nam đang đối mặt với những thách thức và những thử thách hết sức khắc

nghiệt, cụ thể là:

Thứ nhất, đó là sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía Trung Quốc và

ASEAN. Điều đáng nói là trong hơn 10 năm qua, lượng vốn đầu tư đổ vào

ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chẳng tăng lên được là bao trong khi thị



43



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



trường của các nước Đông Nam Á và Trung Quốc đang phát triển rất mạnh

mẽ, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài.

Nếu so sánh về thời gian, cho dù Việt Nam là một thị trường đầy tiềm

năng nhưng ngành công nghiệp này vẫn phát triển chậm hơn so với Trung

Quốc khoảng 20 năm và hơn 30 năm so với Thái Lan. Đây thực sự là hai đối

thủ cạnh tranh khốc liệt nhất đối với ô tô Việt Nam. Trung Quốc hiện là nhà

sản xuất ô tô lớn thứ 3 trên thế giới với việc xuất khẩu hơn 8 tỷ USD ô tô và

phụ tùng, linh kiện. Trong đó các nhà sản xuất phụ tùng ô tô chiếm đến 64%

ngành công nghiệp này. Thái Lan xếp thứ 17 nhưng là nhà sản xuất xe tải 1

tấn lớn nhất thế giới với hơn 15 công ty lắp ráp và khoảng 2500 nhà sản xuất

phụ tùng, linh kiện. Bên cạnh đó, để thực hiện các cam kết hội nhập, Chính

phủ Việt Nam phải đưa ra những chương trình cắt giảm thuế nhập khẩu, thuế

tiêu thụ đặc biệt, mở cửa thị trường ô tô. Điều này đồng nghĩa với việc ô tô

nguyên chiếc cũng như linh kiện, phụ tùng ô tô của các nước này sẽ được

nhập khẩu vào Việt Nam với mức thuế suất thấp, ưu đãi, tác động lớn đến sự

sống còn của ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam.

Thứ hai, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức

Thương mại thế giới WTO đồng nghĩa với việc ngành công nghiệp ô tô Việt

Nam phải đối mặt với cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế. Các

thành viên của WTO gây áp lực buộc Việt Nam phải chấp nhận thuế suất thấp

hơn cho ô tô nguyên chiếc nhập khẩu. Mặt khác, với tư cách là thành viên của

WTO, Việt Nam phải tuân thủ các quy tắc thương mại quốc tế, xoá bỏ các

yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá.

Thứ ba, đó chính là những thách thức từ nội địa như cơ sở hạ tầng,

đường sá kém phát triển, thu nhập đầu người thấp...làm giảm lượng tiêu thụ ô

tô trong nước. Khi đó ngành công nghiệp ô tô khó đạt được các yêu cầu về

giảm chi phí sản xuất, đầu tư mở rộng, tái đầu tư, phát triển các loại sản phẩm

cao cấp, phát triển công nghiệp phụ trợ...



44



Hà Vũ Huyền Dịu - Lớp A16 - K43D - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế



2.3 Thực trạng phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

2.3.1 Quy mô, năng lực sản xuất, cơ cấu sản phẩm

Theo Bộ Công Thương, hiện nay nước ta có hơn 40 doanh nghiệp sản

xuất ô tô và hơn 100 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng ô tô với tổng công suất

là hơn 200.000 sản phẩm mỗi năm. Ở Việt Nam, ngành công nghiệp ô tô được

chia thành hai khối: khối liên doanh và khối các nhà sản xuất lắp ráp ô tô

trong nước. Đến nay, có đến 12 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được

cấp phép hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô tại Việt Nam (bao

gồm cả liên doanh Daihatsu). Còn đối với các doanh nghiệp trong nước, hiện

nay có 35 doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe ô tô, và hơn 10 doanh nghiệp

đang hoàn thành nốt thủ tục đầu tư. Theo ông Trần Đông Phong, đại diện của

phòng kinh tế công nghiệp thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư tại triển lãm ô tô Việt

Nam 2007, tổng đầu tư vào 35 doanh nghiệp Việt Nam tại Việt Nam là

2510.857 tỷ VNĐ, tương đương 161 triệu USD, mức đầu tư trung bình cho

mỗi doanh nghiệp là 78,5 tỷ VNĐ tương đương 5,05 triệu USD. Tổng đầu tư

vào 14 liên doanh (bao gồm Daihatsu) là 691 tỷ USD, gấp 4,3 lần so với

doanh nghiệp trong nước; mức đầu tư trung bình cho mỗi liên doanh là 49,35

tỷ USD, gấp 9,8 lần so với doanh nghiệp trong nước.

Trong những năm gần đây, sản lượng ô tô được sản xuất, lắp ráp trong

nước liên tục tăng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 25-40% ( giai

đoạn 1998-2002), đặc biệt là năm 2003 có tốc độ tăng trưởng lớn nhất là 79% so

với năm 2002. Sản lượng ô tô sản xuất lắp ráp hàng năm trong thời kỳ này đat

con số hơn 50.000 xe, đỉnh điểm là năm 2005 đạt 66.488 xe. Có được những con

số khả quan đó đấy là do vào năm 2002, Nhà nước Việt Nam đã đưa ra chiến

lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam (quyết địng số 177/2002/QĐTtg) và năm 2004, Thủ tướng ký quyết định số 177/2004/QĐ-Ttg phê duyệt quy

hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến

năm 2020. Các bản kế hoạch này đã có tác động tích cực đối với ngành công



45



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

×