1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Tiến sĩ >

Năm 2008, phân tích tổng hợp của Pusch và cộng sự về kháng aspirin từ dữ liệu PUBMED, MEDLINE, COCHRANE tới tháng 12/2008 cho thấy có 5 nghiên cứu dựa trên phương pháp đo TXA2, 11 nghiên cứu sử dụng phương pháp LTA, 15 nghiên cứu sử dụng phương pháp đo bằ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 154 trang )


37

Năm 2008, Crescente và cộng sự phân tích tổng hợp các nghiên cứu về

kháng aspirin sử dụng phương pháp PFA-100. Tổng hợp từ 53 nghiên cứu

với 6450 đối tượng từ dữ liệu PUBMED cho đến 15/10/2007. Tiêu chuẩn

kháng aspirin khác nhau giữa các nghiên cứu, dao động với ngưỡng cắt 170300 ms trên thiết bị đo PFA-100. Tỷ lệ kháng aspirin trung bình là 27% (7% 77%). Tỷ lệ kháng aspirin ở nhóm có biến cố mạch máu là 28% (26% 30%), cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 23% (21% - 25%) ở nhóm không

có biến cố mạch máu. Trong nhóm có biến cố mạch máu, tỷ lệ kháng aspirin

ở giai đoạn cấp là 41% (37% - 47%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 25%

(24% - 27%) ở giai đoạn mạn tính. Kháng aspirin có tỷ lệ cao hơn có ý nghĩa

thống kê ở nhóm đối tượng lớn tuổi, 29% (27% - 33,1%) so với đối tượng

nhỏ tuổi hơn là 24% (22% - 26%). Nhóm sử dụng aspirin với liều ≤100

mg/ngày có tỷ lệ kháng aspirin 23% (21% - 25%), thấp hơn có ý nghĩa thống

kê so với tỷ lệ 30% (28% - 32%) ở nhóm sử dụng aspirin với liều >100

mg/ngày. Tỷ lệ kháng aspirin ở đối tượng dùng aspirin dài ngày là 32% (29%

- 35%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ 25% (23% - 27%) ở đối

tượng mới dùng aspirin (tối thiểu 7 ngày). Tỷ lệ kháng aspirin theo tiêu

chuẩn của tác giả nghiên cứu sử dụng là 28% (26% - 30%), cao hơn có ý

nghĩa thống kê so với 25% (23% - 27%) nếu sử dụng tiêu chuẩn của nhà sản

xuất thiết bị khuyến cáo. Tỷ lệ kháng aspirin nếu đo trước và sau khi điều trị

aspirin là 24% (22% - 27%), thấp hơn có ý nghĩa thống kê nếu chỉ đo một

thời điểm sau khi điều trị aspirin là 28% (26% - 29%). Tỷ lệ kháng aspirin ở

đối tượng ĐTĐ là 26% (23% - 31%), cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ

22% (20% - 23%) ở đối tượng không có ĐTĐ. Sự khác biệt là không có ý

nghĩa thống kê quan sát thấy ở nhóm có các yếu tố nguy cơ tim mạch như:

tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, hút thuốc lá so với nhóm không có yếu tố

nguy cơ tim mạch nêu trên. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê cũng xảy

ra khi so sánh giữa hai giới. Tỷ lệ kháng aspirin là 32%, không khác nhau



38

giữa quần thể người Châu Âu và người Bắc Mỹ (29% - 35%) nhưng cao hơn

có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ kháng aspirin được công bố gần đây là 25%

(23% - 26%). Nghiên cứu sử dụng chất chống đông citrat 3,2% có tỷ lệ kháng

aspirin là 31% (29% - 33%), cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiên cứu

sử dụng chất chống đông citrat 3,8% là 24% (22% - 26%). Các biến cố tim

mạch có liên quan đến kháng aspirin (RR = 1,63; CI = 1,16 – 2,28) [49].

Năm 2008, Ferguson và cộng sự phân tích tổng hợp từ dữ liệu

PUBMED từ tháng 01/1996 đến tháng 11/2007 bằng phần mềm Ovit (Ovid

Technologies, Inc; New York) với 17 nghiên cứu được tìm thấy. Kết quả

kháng aspirin có liên quan đến giới nữ, người cao tuổi, nồng độ hemoglobin

máu thấp. Đái tháo đường và tăng BMI có liên quan ở một số nghiên cứu

nhưng chưa đạt mức ý nghĩa thống kê khi phân tích tổng hợp [54].

Năm 2008, Krasopoulos và cộng sự phân tích tổng hợp trên 20 nghiên

cứu với 2930 bệnh nhân (dữ liệu từ Medline, Embase, CHINAHL,

Cochrane). Phần lớn điều trị aspirin với liều 75-325 mg/ngày. Có 414 bệnh

nhân có tiền sử đột quỵ, 410 bệnh nhân có hội chứng mạch vành cấp, 132

bệnh nhân có nhồi máu cơ tim, 542 bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu động mạch

vành, 715 bệnh nhân nong mạch vành, 760 bệnh nhân bệnh tim mạch ổn

định, 96 bệnh nhân bệnh động mạch ngoại biên. Có 6 nghiên cứu dùng phối

hợp aspirin với thuốc chống ngưng tập tiểu cầu khác. Tỷ lệ kháng aspirin

tổng hợp là 28%. Kháng aspirin có liên quan với biến cố tim mạch (OR =

3,85; 95%CI = 3,08 – 4,80), với tỷ lệ tử vong (OR = 5,99; 95%CI = 2,28 –

15,72), với hội chứng mạch vành cấp (OR = 4,06; 95%CI = 2,96 – 5,56).

Kháng aspirin không bị ảnh hưởng khi dùng phối hợp với các thuốc chống

ngưng tập tiểu cầu khác. Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm kháng

aspirin và nhóm không kháng aspirin trên các yếu tố: nam giới (7/20 nghiên

cứu, p =0,001), giảm chức năng thận (2/20 nghiên cứu, p =0,03) [84].



39

Năm 2008, Zimmermann đánh giá tổng hợp các biến chứng lâm sàng

có liên quan đến kháng aspirin thấy tỷ lệ kháng aspirin đánh giá bằng xét

nghiệm là 5,2% đến 69% trên bệnh nhân động mạch vành ổn định, 22.5%

đến 83,3% trên bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp, 20% đến 74% trên bệnh

nhân thực hiện phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, 5% đến 60% trên bệnh

nhân bệnh động mạch não hoặc có tiền sử đột quỵ, 9% đến 65% trên bệnh

nhân bệnh động mạch ngoại biên. Bệnh nhân có bệnh tim mạch sẽ tăng 13

lần các biến cố tắc mạch do vữa xơ khi có kháng aspirin [145].

Năm 2008, phân tích tổng hợp của Sofi và cộng sự từ dữ liệu

EMBASE, MEDLINE, COCHRANE, Science Citation Index tới tháng

5/2007 trên 11 nghiên cứu tiến cứu với 1952 bệnh nhân có thời gian theo dõi

từ 6 ngày đến 4 năm. Kết quả cho thấy tỷ lệ kháng aspirin từ 0% đến trên

50%, các biến cố lâm sàng nặng có liên quan đến kháng aspirin (RR = 3,11;

95%CI = 1,88 – 5,15, p <0,0001). Tái phát các biến cố lâm sàng được quan

sát thấy tăng lên ở nhóm có thời gian theo dõi lâu trên hoặc bằng 1 năm (8/11

nghiên cứu, RR = 2,51; 95%CI = 1,46 – 4,32, p = 0,0009), thời gian theo dõi

nhỏ hơn 1 năm (3/11 nghiên cứu, RR = 7,25; 95%CI = 3,12 – 16,81,

p<0,00001). Tương tự với liều aspirin nhỏ hơn 100mg/ngày (3/11 nghiên

cứu, RR = 5,69; 95%CI = 2,81 – 11,54, p < 0,00001), liều aspirin lớn hơn

100mg/ngày (6/11 nghiên cứu, RR = 2,45; 95%CI = 1,45 – 4,19, p = 0,002).

Trên bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp (8/11 nghiên cứu, RR = 3,17;

95%CI = 1,68 – 6,00, p < 0,0001), trên bệnh nhân bệnh động mạch vành ổn

định (3/11 nghiên cứu, RR = 3,02; 95%CI = 1,26 – 7,26, p < 0,0001).

Phương pháp sử dụng là PFA-100 (8/11 nghiên cứu, RR = 2,52; 95%CI =

1,44 – 4,41, p = 0,001), phương pháp sử dụng là LTA (3/11 nghiên cứu, RR

= 5,82; 95%CI = 2,99 – 11,34, p < 0,0001) [123].



40

Cũng trong năm 2008, Reny và cộng sự phân tích tổng hợp các nghiên

cứu sử dụng phương pháp PFA-100 để dự báo các biến cố tim mạch trên

bệnh nhân điều trị aspirin. Dữ liệu từ MEDLINE, Web of Science and

Cochrane với 15 nghiên cứu (7 nghiên cứu quan sát với 1466 bệnh nhân, 8

nghiên cứu tiến cứu với 1227 bệnh nhân). Phân tích cho thấy tỷ lệ kháng

aspirin là 9,5% - 49%, tái phát các biến cố tim mạch có liên quan đến kháng

aspirin (OR = 2,1; 95%CI = 1,4 – 3,4, p < 0,001) [108].

Năm 2009, Kasotakis và cộng sự đánh giá tổng hợp các bằng chứng

hiện tại của mối liên quan kháng aspirin và các biến cố lâm sàng. Tỷ lệ kháng

aspirin dao động từ 0,4% đến 70% khi sử dụng phương pháp LTA, 1% đến

56% khi sử dụng phương pháp PFA-100, 7% đến 27% khi sử dụng phương

pháp RPFA [82].

Năm 2009, Mansour và cộng sự đánh giá tổng hợp các nghiên cứu về

kháng aspirin thấy tỷ lệ kháng aspirin từ 5,5% đến 60%. Có đến 7 ngưỡng

xác định kháng aspirin khác nhau cho phương pháp PFA-100. Khi kết hợp cả

3 phương pháp PFA-100, LTA, VerifyNow-Aspirin thì tỷ lệ kháng aspirin rất

thấp là 2%. Phần lớn các nghiên cứu là trên người lớn. Tỷ lệ kháng aspirin

trên 44 trẻ em tử 1 đến 17 tuổi xác định bằng nhiều phương pháp cho thấy có

ít nhất 6/44 trẻ có kháng aspirin đo bởi một trong ba phương pháp (5 đo bằng

phương pháp PFA-100, 1 đo bằng phương pháp LTA và TXB2) [94].



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (154 trang)

×