1. Trang chủ >
  2. Cao đẳng - Đại học >
  3. Chuyên ngành kinh tế >

Căn cứ theo đặc điểm chu chuyển vốn thì vốn được chia thành vốn cố định và vốn lưu động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.59 KB, 123 trang )


13



hố hay dịch vụ của mình. Vốn cố định là sự biểu hiện bằng tiền các tài sản

cố định của doanh nghiệp(1)

Vì là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định

nên quy mơ của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố

định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kĩ thuật và cơng nghệ, năng lực

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng ngược lại đặc điểm kinh tế của

tài sản cố định trong q trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối

đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Ta có thể khái quát những

nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh

doanh như sau:

Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều

này do đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ

sản xuất quyết định.

Hai là: Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong

các chu kỳ sản xuất, khi tham gia các chu kỳ sản xuất một bộ phận vốn cố

định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình

thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định, một

phần được cố định trong nó. Vốn cố định được tách thành hai bộ phận:

+ Bộ phận thứ nhất tương ứng với giá trị hao mòn của tài sản cố định

được chuyển vào giá trị sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và được

tích luỹ lại thành quỹ khấu hao sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ. Quỹ

khấu hao dùng để tái sản xuất tài sản cố định. Trên thực tế khi chưa có nhu

cầu đầu tư mua sắm tài sản cố định các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng linh

hoạt quỹ này để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.

+ Bộ phận thứ hai tức là phần còn lại của vốn tài sản cố định ngày càng

giảm đi trong những chu kỳ sản xuất tiếp theo.

()



Giáo trình Kinh tế doanh nghiệp thương mại (2012), PGS.TS. Phạm Cơng

Đồn, TS. Nguyễn Cảnh Lịch

1



14



Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hồn thành một vòng

ln chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị

sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định

lại dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng, giá trị

của nó mới hồn thành một vòng luân chuyển.

Trong các doanh nghiệp vốn cố định là một bộ phận vốn quan trọng

chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tồn bộ vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất

kinh doanh nói chung. Quy mơ của vốn cố định, trình độ quản lý và sử dụng

nó là nhân tố ảnh hưởng đến trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất kinh

doanh. Từ những đặc điểm trên của vốn cố định đòi hỏi trong việc quản lý

vốn cố định phải ln gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là

các tài sản cố định của doanh nghiệp. Vì điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến

hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định như sau:

Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài

sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều

chu kỳ sản xuất và hồn thành một vòng tuần hồn khi tài sản cố định hết thời

gian sử dụng.

b. Vốn lưu động

Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn kinh doanh ứng

trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm

bảo cho qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành

thường xuyên liên tục. Vốn lưu động là sự biểu hiện bằng tiền của các tài sản

lưu động của doanh nghiệp (1)

Trong các doanh nghiệp tài sản lưu động sản xuất bao gồm các loại:

nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang

đang trong quá trình dự trữ sản xuất hoặc chế biến. Tài sản lưu động trong

()



Giáo trình Kinh tế doanh nghiệp thương mại (2012), PGS.TS. Phạm Cơng

Đồn, TS. Nguyễn Cảnh Lịch

1



15



q trình lưu thơng bao gồm thành phẩm chờ tiêu thụ, vốn bắng tiền, vốn

trong thanh tốn, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước. Tài sản

lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm trong q trình

lưu thơng ln thay đổi cho nhau, vận động khơng ngừng nhằm làm cho q

trình sản xuất diễn ra thường xuyên, liên tục. Như vậy, có thể thấy đặc điểm

chu chuyển vốn lưu động qua các điểm sau:

Thứ nhất, trong quá trình sản xuất, khác với tài sản cố định, tài sản lưu

động của doanh nghiệp ln thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm.

Và giá trị của nó cũng được dịch chuyến một lần vào giá trị sản phẩm tiêu

thụ. Đặc điểm này quyết định sự vận động của vốn lưu động tức hình thái giá

trị của tài sản lưu động là: khởi đầu vòng tuần hồn vốn, vốn lưu động từ hình

thái tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hố dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, vật

tư được đưa vào chế tạo bán thành phẩm và thành phẩm. Kết thúc vòng tuần

hồn, sau khi hàng hố được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ

như điểm xuất phát ban đầu của nó.

Thứ hai, các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau các chu

kỳ sản xuất được lặp đi lặp lại. Vốn lưu động hồn thành một vòng tuần hồn

sau một chu kỳ sản xuất.

Thứ ba, trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận

động của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người

lao động. Vòng quay của vốn càng được quay nhanh thì doanh thu càng cao

và càng tiết kiệm được vốn, giảm chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm

tăng thu nhập của doanh nghiệp, doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở

rộng sản xuất, không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức của

doanh nghiệp.

Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu

động và lưu thơng nhằm đảm bảo cho q trình tái sản xuất của doanh nghiệp

được thực hiện thường xuyên liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá

trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hồn



16



sau một chu kỳ sản xuất, đây cũng là điều khác biệt lớn nhất giữa vốn cố định

và vốn lưu động (vốn cố định chuyển dần giá trị của nó vào sản phẩm thơng

qua mức khấu hao, còn vốn lưu động chuyển tồn bộ giá trị của nó vào sản

phẩm theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.

1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP

1.2.1. Các phương pháp và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn

1.2.1.1.Phương pháp đánh giá

a. Phương pháp so sánh

Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân

tích. Phương pháp này đo lường các chỉ tiêu với nhau để thấy được sự thay

đổi của các chỉ tiêu đang nghiên cứu. Khi đó cần phải có một tiêu chuẩn hay

gốc để đối chiếu và các số liệu sau thường được sử dụng:

- Tài liệu kỳ trước (năm trước, quý trước, tháng trước);

- Các mục tiêu đã đề ra (kế hoạch, dự toán, định mức);

- Các chỉ tiêu tương ứng của những doanh nghiệp cùng ngành hay số

trung bình của ngành đó.

Để phương pháp này có ý nghĩa và đảm bảo việc so sánh được các chỉ

tiêu phân tích phải được thống nhất cả về mặt thời gian và không gian. Các ỹ

thuật hay cách thức so sánh của phương pháp này là so sánh bằng số tuyệt

đối, so sánh bằng số tương đối và so sánh bằng số bình quân.

Một phương pháp có thể được coi là một dạng đặc biệt của phương pháp

so sánh, đó là phương pháp tỷ lệ hay phương pháp phân tích bằng các chỉ số

tài chính. Các tỷ số tài chính là những cơng cụ phân tích cơ bản để diễn đạt



17



các báo cáo. Việc phân tích các tỷ số tài chính sử dụng các số liệu ở báo cáo

tài chính và trình bày kết quả theo những mảng nội dung nhất định. Các nhà

phân tích xem xét những kết quả này với số liệu của những doanh nghiệp

khác cùng nhóm đồng hạng hoặc số trung bình của ngành. Ưu điểm của việc

phân tích tỷ số tài chính còn ở chỗ, thậm chí nó giúp so sánh được hiệu quả

kinh doanh của những doanh nghiệp không cùng lĩnh vực hoạt động hay quy

mô hoạt động kinh doanh.

Nhiều tỷ số tài chính được sử dụng nhưng có thể được chia thành bốn nhóm

chính sau: phân tích khả năng thanh khoản, phân tích khả năng trả nợ, phân tích

cấu trúc tài chính (hay đòn bẩy tài chính) và phân tích khả năng sinh lời. Tùy theo

mục đích nghiên cứu của từng đối tượng sử dụng thơng tin mà những tỷ số tài

chính này có thể có mang nhiều thông tin hơn so với những tỷ số khác. Vì vậy, các

nhà phân tích có kinh nghiệm khơng tính tốn các tỷ số một cách rời rạc mà phải

xem xét các chỉ tiêu trong mối quan hệ với nhau để hiểu được bản chất của vấn

đề. Để đạt được kết quả có ý nghĩa, nhà phân tích so sánh những tỷ số này qua

một thời kỳ gồm nhiều năm so với tiêu chuẩn; xem xét sự biến đổi này so với

chuẩn mực và kiểm tra chéo những tỷ số này với nhau để giúp phát hiện được xu

hướng biến động của chúng.

Tuy nhiên, việc phân tích dựa vào các tỷ số tài chính này cũng có những

hạn chế nhất định. Thứ nhất, phân tích tỷ số chỉ giải quyết với những số liệu

định lượng chứ không xem xét những yếu tố định tính như giá trị đạo đức hay

trình độ của người quản lý; trách nhiệm của người lao động.

Thứ hai, nhà quản lý có thể đưa ra những quyết định ngắn hạn trước

ngày lập các báo cáo để tác động đến các tỷ số. Ví dụ, một doanh nghiệp có

thể cải thiện tỷ lệ khả năng thanh khoản bằng cách trả bớt những khoản nợ

ngắn hạn trước thời điểm lập bảng cân đối kế toán.



18



Thứ ba, sự so sánh các tỷ số giữa các doanh nghiệp có thể dẫn đến sự

hiểu nhầm vì sự khác nhau trong thực tế cơng tác kế tốn ở các lĩnh vực như:

tính khấu hao, ghi nhận thu nhập và tài sản vơ hình hay năm tài chính khác

nhau. Vì vậy, các nhà phân tích thường phải đặt các doanh nghiệp trên một cơ

sở kế tốn có thể so sánh được trước khi so sánh các tỷ số.

Thứ tư, có những tỷ số có tên gọi giống nhau nhưng các nhà phân tích

đơi khi lại sử dụng định nghĩa hoặc cơng thức khác nhau nên có thể dẫn đến

sự hiểu nhầm khi so sánh và diễn giải giữa các doanh nghiệp.

Thứ năm, kết quả kế tốn được tính theo giá trị lịch sử của tiền tệ hay

tuân thủ theo nguyên tắc giá phí lịch sử (hoặc giá gốc). Trong khi đó một sự

thay đổi trong sức mua của đồng tiền do lạm phát có thể làm sai lệch tính so

sánh được của các chỉ tiêu vì chúng được tính tốn ở những thời điểm khác

nhau. Ví dụ, khi lạm phát cao xảy ra ở nên kinh tế sẽ khiến các tỷ số so sánh

doanh thu và thu nhập ròng với tài sản và vốn chủ sở hữu có thể bị tăng lên.

Thứ sáu, nếu chỉ có một tỷ số thì khơng có ý nghĩa gì. Điều tạo nên sự phù

hợp của một tỷ số ở doanh nghiệp được quyết định bởi ngành của nó, chiến lược

quản lý và tình trạng của nền kinh tế. Kết luận một tỷ số tốt và chỉ số kia xấu là

một sự nhầm lẫn. Nói cách khác các tỷ số phải được đánh giá trong sự kết hợp với

hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ và so sánh trong bối cảnh các doanh

nghiệp tương tự.

Cuối cùng, các tỷ số phải dựa trên các báo cáo tài chính cơng khai phản ánh

q khứ chứ khơng phải tương lai. Trừ phi những chỉ tiêu này đáng tin cậy, nếu

khơng sẽ rất khó đưa ra những dự đốn hợp lý về xu hướng của tương lai. Nhà

phân tích quan tâm đến tương lai không nên nhầm lẫn rằng số liệu quá khứ tất yếu

phản ánh tình trạng hiện tại hay kỳ vọng tương lai.

b. Phương pháp tỷ lệ



19



Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài

chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ, cố nhiên là sự biến

đổi của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu

phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình

tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá

trị các tỷ lệ tham chiếu.

Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân

thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục

tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh

tốn, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt

động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao

gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong

mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa

chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả

sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu đánh

giá hiệu quả sử dụng vốn.

c. Phương pháp Dupont

Phương pháp phân tích bằng mơ hình Dupont xây dựng một chỉ tiêu tổng

hợp ban đầu thành một phương trình hay mơ hình gồm nhiều chỉ tiêu có quan

hệ với nhau dưới dạng tích số tùy vào mục đích tìm hiểu. Phương pháp này

được xây dựng dựa trên mối quan hệ qua lại giữa những chỉ tiêu tài chính, để

từ đó biến đổi một chỉ tiêu ban đầu thành một hàm số (hay phương trình) của

nhiều hệ số (hay biến số) khác nhau và có quan hệ mật thiết với nhau.

Phương pháp này giúp phân tích một chỉ tiêu chịu ảnh hưởng như thế

nào khi các chỉ tiêu tài chính khác trong mơ hình thay đổi. Phương pháp

Dupont sử dụng chỉ tiêu Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROA: Return

On Equity được tính tốn bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế (LNST) chia cho



20



Vốn chủ sở hữu bình quân (VCSHBQ). Chỉ tiêu này xem xét việc đầu tư vào

một đồng Vốn chủ sở hữu trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng LNST. Từ chỉ tiêu

ROA ban đầu này được tách thành hai chỉ tiêu, đó là:

ROE



=



LNST

Tổng TSBQ



x



Tổng TSBQ

VCSHBQ



= ROA x EM

ROA (Return On Asset): Tỷ suất sinh lời tài sản của doanh nghiệp

EM (Equity multiplier): Số nhân vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (đo

lường độ bẩy tài chính của doanh nghiệp).

Để có thể phân tích và đưa ra được những nhận xét về các yếu tố ảnh

hưởng đến ROE thông qua ROA thì sẽ phải đi phân tích các yếu tố cấu thành

tỷ số ROA.

ROA



=



LNST

Tổng thu nhập



x



Tổng thu nhập

Tổng tài sản



= PM x AU

PM (Profit margin): phản ánh số lợi nhuận sau thuế mà doanh nghiệp thu

được trên một đồng tổng thu nhập

AU (Asset utility) phản ảnh tổng thu nhập mà doanh nghiệp đạt được trên

một đồng tài sản.

PM, AU đều tỷ lệ thuận với ROA và ROE. PM đo lường khả năng tiết

kiệm chi phí của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp kiểm sốt chi phí càng tốt thì

lợi nhuận đạt được càng cao. Còn AU đo lường khả năng tạo ra thu nhập của

tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Thu nhập từ 1 đồng tài sản càng cao

thì lợi nhuận của doanh nghiệp cũng lớn hteo. Tuy nhiên, cũng như chỉ số



21



ROE hay PM, khi PM và AU cao cũng có thể dẫn đến các vấn đề về rủi ro

khiến các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải lưu ý. Để có thể hiểu và đánh giá

đúng hơn về mức độ yêu cầu quan tâm đó cần phải phân tích các chỉ tiêu PM

và AU thành các yếu tố cấu thành khác.

Những vấn đề rủi ro sẽ được nhận biết và phân tích rõ hơn về mức độ ảnh

hưởng của nó đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp nếu tiếp tục phân tích các tỷ

số này thành các yếu tố khác nữa.

1.2.1.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp

Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp được đánh giá qua hệ thống

các chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn kinh

doanh, hiệu quả sử dụng vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn lưu động

a. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tồn bộ vốn kinh doanh

(1) Vòng quay tồn bộ vốn kinh doanh

(1)



Vòng quay tồn bộ vốn

kinh doanh



=



Doanh thu thuần bán hàng đạt được trong kỳ

Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ



Chỉ tiêu này phản ánh vốn kinh doanh trong kỳ chu chuyển được bao

nhiêu vòng hay mấy lần. Chỉ tiêu này đạt cao, hiệu suất sử dụng vốn kinh

doanh càng cao.

Vốn kinh doanh bình quân được sử dụng trong kỳ được tính bằng cơng

thức:

(1)



Vốn kinh doanh bình

qn



= Vốn kinh doanh kỳ này+ Vốn kinh doanh kỳ

trước



Tài chính doanh nghiệp (2008), NXB Tài chính, PGS.TS. Nguyễn Đình

Kiệm, TS. Bạch Đức Hiển

1()



22



2

Cơng thức tính vốn kinh doanh bình qn này được áp dụng cho tất cả

các chỉ tiêu được tính từ vốn kinh doanh bình quân.

(2) Tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh (hay tỷ

suất sinh lời của tài sản)

Lợi nhuận trước lãi vay và trước thuế

(1)



ROAE =



Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong



X100%



kỳ

Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn kinh

doanh, khơng tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn

gốc của vốn kinh doanh.

(3) Tỷ suất lợi nhuận trước thuế vốn kinh doanh

(1)



Tỷ suất lợi nhuận



trước thuế vốn kinh =

doanh



Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp

Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong



X100%



kỳ



Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế với vốn kinh doanh bình quân

sử dụng trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bình quân

sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế.

(4) Tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh doanh

(2)



Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp



sau thuế vốn kinh

1 Tài



X100%



Vốn kinh doanh bình qn sử dụng trong



chính doanh nghiệp (2008), NXB Tài chính, PGS.TS. Nguyễn Đình

Kiệm, TS. Bạch Đức Hiển

2 Tài chính doanh nghiệp (2008), NXB Tài chính, PGS.TS. Nguyễn Đình

Kiệm, TS. Bạch Đức Hiển



23



kỳ



doanh



Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với vốn kinh doanh bình quân

sử dụng trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bình quân

sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.

(5) Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu

(1)



Tỷ suất lợi nhuận

vốn chủ sở hữu



Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp

= Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong x100%

kỳ



Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong

kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho chủ sở hữu.

Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, một mặt phụ thuộc vào hiệu quả sử

dụng vốn kinh doanh hay phụ thuộc vào trình độ sử dụng vốn. Mặt khác, hiệu

quả sử dụng vốn còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức nguồn vốn của doanh

nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của một doanh nghiệp

cần phải xem xét trên cơ sở phân tích tình hình và phối hợp các chỉ tiêu để

đánh giá.

Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ được tính bằng cơng thức:

(1)



Vốn chủ sở hữu

bình qn



Vốn chủ sở hữu kỳ này + Vốn chủ sở

=



hữu kỳ trước



x100%



2



Công thức này được áp dụng cho tất cả các chỉ tiêu được tính từ chỉ tiêu

vốn chủ sở hữu bình qn

b. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định

(1) Hiệu suất sử dụng vốn cố định



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

×