Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.59 KB, 123 trang )
12
thời gian sử dụng, lãi suất, thế chấp...) nhưng không thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp. Vốn vay có hai loại là vốn vay ngắn hạn và vốn vay dài hạn.
1.1.3.2. Căn cứ theo thời gian huy động vốn
Căn cứ theo thời gian huy động vốn thì vốn được chia thành vốn thường
xuyên và vốn tạm thời
a. Vốn thường xuyên
Vốn thường xun là nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà
doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vào tài sản cố định và một bộ phận tài
sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động doanh nghiệp
(2)
.
Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh
nghiệp.
b. Vốn tạm thời
Vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh
số có thể sử dụng để đap sứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát
sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này
bao gồm các khoản vay ngắn hạn và các khoản chiếm dụng của bạn hàng.
1.1.3.3. Căn cứ theo đặc điểm chu chuyển vốn
Căn cứ theo đặc điểm chu chuyển vốn thì vốn được chia thành vốn cố
định và vốn lưu động
a. Vốn cố định
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường việc mua sắm, xây dựng hay lắp
đặt các tài sản cố định của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng
tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố
định hữu hình và vơ hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số
vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không
mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng
13
hoá hay dịch vụ của mình. Vốn cố định là sự biểu hiện bằng tiền các tài sản
cố định của doanh nghiệp(1)
Vì là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định
nên quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mơ của tài sản cố
định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kĩ thuật và công nghệ, năng lực
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng ngược lại đặc điểm kinh tế của
tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối
đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Ta có thể khái quát những
nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh
doanh như sau:
Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều
này do đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ
sản xuất quyết định.
Hai là: Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong
các chu kỳ sản xuất, khi tham gia các chu kỳ sản xuất một bộ phận vốn cố
định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình
thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định, một
phần được cố định trong nó. Vốn cố định được tách thành hai bộ phận:
+ Bộ phận thứ nhất tương ứng với giá trị hao mòn của tài sản cố định
được chuyển vào giá trị sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và được
tích luỹ lại thành quỹ khấu hao sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ. Quỹ
khấu hao dùng để tái sản xuất tài sản cố định. Trên thực tế khi chưa có nhu
cầu đầu tư mua sắm tài sản cố định các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng linh
hoạt quỹ này để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.
+ Bộ phận thứ hai tức là phần còn lại của vốn tài sản cố định ngày càng
giảm đi trong những chu kỳ sản xuất tiếp theo.
()
Giáo trình Kinh tế doanh nghiệp thương mại (2012), PGS.TS. Phạm Cơng
Đồn, TS. Nguyễn Cảnh Lịch
1
14
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng
luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị
sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định
lại dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng, giá trị
của nó mới hồn thành một vòng ln chuyển.
Trong các doanh nghiệp vốn cố định là một bộ phận vốn quan trọng
chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong toàn bộ vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất
kinh doanh nói chung. Quy mơ của vốn cố định, trình độ quản lý và sử dụng
nó là nhân tố ảnh hưởng đến trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất kinh
doanh. Từ những đặc điểm trên của vốn cố định đòi hỏi trong việc quản lý
vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là
các tài sản cố định của doanh nghiệp. Vì điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài
sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều
chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hồn khi tài sản cố định hết thời
gian sử dụng.
b. Vốn lưu động
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn kinh doanh ứng
trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thơng nhằm đảm
bảo cho qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành
thường xuyên liên tục. Vốn lưu động là sự biểu hiện bằng tiền của các tài sản
lưu động của doanh nghiệp (1)
Trong các doanh nghiệp tài sản lưu động sản xuất bao gồm các loại:
nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang
đang trong quá trình dự trữ sản xuất hoặc chế biến. Tài sản lưu động trong
()
Giáo trình Kinh tế doanh nghiệp thương mại (2012), PGS.TS. Phạm Cơng
Đồn, TS. Nguyễn Cảnh Lịch
1
15
q trình lưu thơng bao gồm thành phẩm chờ tiêu thụ, vốn bắng tiền, vốn
trong thanh tốn, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước. Tài sản
lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm trong q trình
lưu thơng ln thay đổi cho nhau, vận động khơng ngừng nhằm làm cho q
trình sản xuất diễn ra thường xuyên, liên tục. Như vậy, có thể thấy đặc điểm
chu chuyển vốn lưu động qua các điểm sau:
Thứ nhất, trong quá trình sản xuất, khác với tài sản cố định, tài sản lưu
động của doanh nghiệp luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm.
Và giá trị của nó cũng được dịch chuyến một lần vào giá trị sản phẩm tiêu
thụ. Đặc điểm này quyết định sự vận động của vốn lưu động tức hình thái giá
trị của tài sản lưu động là: khởi đầu vòng tuần hồn vốn, vốn lưu động từ hình
thái tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hố dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, vật
tư được đưa vào chế tạo bán thành phẩm và thành phẩm. Kết thúc vòng tuần
hồn, sau khi hàng hoá được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ
như điểm xuất phát ban đầu của nó.
Thứ hai, các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau các chu
kỳ sản xuất được lặp đi lặp lại. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hồn
sau một chu kỳ sản xuất.
Thứ ba, trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận
động của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người
lao động. Vòng quay của vốn càng được quay nhanh thì doanh thu càng cao
và càng tiết kiệm được vốn, giảm chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm
tăng thu nhập của doanh nghiệp, doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở
rộng sản xuất, khơng ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức của
doanh nghiệp.
Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu
động và lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp
được thực hiện thường xuyên liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá
trị ngay trong một lần, tuần hồn liên tục và hồn thành một vòng tuần hồn
16
sau một chu kỳ sản xuất, đây cũng là điều khác biệt lớn nhất giữa vốn cố định
và vốn lưu động (vốn cố định chuyển dần giá trị của nó vào sản phẩm thơng
qua mức khấu hao, còn vốn lưu động chuyển tồn bộ giá trị của nó vào sản
phẩm theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1. Các phương pháp và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
1.2.1.1.Phương pháp đánh giá
a. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân
tích. Phương pháp này đo lường các chỉ tiêu với nhau để thấy được sự thay
đổi của các chỉ tiêu đang nghiên cứu. Khi đó cần phải có một tiêu chuẩn hay
gốc để đối chiếu và các số liệu sau thường được sử dụng:
- Tài liệu kỳ trước (năm trước, quý trước, tháng trước);
- Các mục tiêu đã đề ra (kế hoạch, dự toán, định mức);
- Các chỉ tiêu tương ứng của những doanh nghiệp cùng ngành hay số
trung bình của ngành đó.
Để phương pháp này có ý nghĩa và đảm bảo việc so sánh được các chỉ
tiêu phân tích phải được thống nhất cả về mặt thời gian và không gian. Các ỹ
thuật hay cách thức so sánh của phương pháp này là so sánh bằng số tuyệt
đối, so sánh bằng số tương đối và so sánh bằng số bình quân.
Một phương pháp có thể được coi là một dạng đặc biệt của phương pháp
so sánh, đó là phương pháp tỷ lệ hay phương pháp phân tích bằng các chỉ số
tài chính. Các tỷ số tài chính là những cơng cụ phân tích cơ bản để diễn đạt
17
các báo cáo. Việc phân tích các tỷ số tài chính sử dụng các số liệu ở báo cáo
tài chính và trình bày kết quả theo những mảng nội dung nhất định. Các nhà
phân tích xem xét những kết quả này với số liệu của những doanh nghiệp
khác cùng nhóm đồng hạng hoặc số trung bình của ngành. Ưu điểm của việc
phân tích tỷ số tài chính còn ở chỗ, thậm chí nó giúp so sánh được hiệu quả
kinh doanh của những doanh nghiệp không cùng lĩnh vực hoạt động hay quy
mô hoạt động kinh doanh.
Nhiều tỷ số tài chính được sử dụng nhưng có thể được chia thành bốn nhóm
chính sau: phân tích khả năng thanh khoản, phân tích khả năng trả nợ, phân tích
cấu trúc tài chính (hay đòn bẩy tài chính) và phân tích khả năng sinh lời. Tùy theo
mục đích nghiên cứu của từng đối tượng sử dụng thông tin mà những tỷ số tài
chính này có thể có mang nhiều thơng tin hơn so với những tỷ số khác. Vì vậy, các
nhà phân tích có kinh nghiệm khơng tính tốn các tỷ số một cách rời rạc mà phải
xem xét các chỉ tiêu trong mối quan hệ với nhau để hiểu được bản chất của vấn
đề. Để đạt được kết quả có ý nghĩa, nhà phân tích so sánh những tỷ số này qua
một thời kỳ gồm nhiều năm so với tiêu chuẩn; xem xét sự biến đổi này so với
chuẩn mực và kiểm tra chéo những tỷ số này với nhau để giúp phát hiện được xu
hướng biến động của chúng.
Tuy nhiên, việc phân tích dựa vào các tỷ số tài chính này cũng có những
hạn chế nhất định. Thứ nhất, phân tích tỷ số chỉ giải quyết với những số liệu
định lượng chứ không xem xét những yếu tố định tính như giá trị đạo đức hay
trình độ của người quản lý; trách nhiệm của người lao động.
Thứ hai, nhà quản lý có thể đưa ra những quyết định ngắn hạn trước
ngày lập các báo cáo để tác động đến các tỷ số. Ví dụ, một doanh nghiệp có
thể cải thiện tỷ lệ khả năng thanh khoản bằng cách trả bớt những khoản nợ
ngắn hạn trước thời điểm lập bảng cân đối kế toán.