Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.8 KB, 64 trang )
tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống
vật chất và tinh thần của xã hội hiện nay.
Vì thế mà làm cho khoảng cách giữa các phát minh khoa học - công
nghệ và áp dụng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp; kho tàng kiến thức của nhân
loại ngày càng đa dạng và phong phú và tăng theo cấp số nhân.
Với sự phát triển của các quốc gia hiện nay thì nó càng đòi hỏi phải
tăng suất lao động, năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa và đổi
mới cơng nghệ một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền thông, mạng
viễn thông, internet đã tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hóa, đồng
thời cũng đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc dân tộc.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng
động của các nền kinh tế, q trình hội nhập và tồn cầu hóa đang làm cho
việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên thực
tiễn hơn và nhanh chóng hơn. Khoa học - cơng nghệ trở thành động lực cơ bản
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa
học - công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu
trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các
thệ hệ hiện nay và mai sau.
Đổi mối giáo dục đang diễn ra trên quy mơ tồn cầu. Bối cảnh trên tạo
nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo
dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống
giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển sang cơ chế mở, đối thoại với xã
hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học- cơng nghệ và ứng dụng; nhà
giáo thay vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển sang cung cấp cho người học
phương pháp thu nhận thơng tin một cách hệ thống, có tư duy phân tích và
tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem như là phúc lợi xã hội chuyển
sang đầu tư cho phát triển.
4
Vì vậy, các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước
phát triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải
đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn,
trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước.
Trong giáo dục, quy trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao
gồm các yêu tố: mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, hình thức tổ chức
dạy học, phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là khâu rất quan trọng
bởi lẽ phương pháp dạy học có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao,
phương pháp có phù hợp thì mới có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng
tạo của người học. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục trước hết là việc đổi mới
phương pháp dạy học.
1. 1. 3 Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông
Thực chất của đổi mới PPDH là "lấy học sinh làm trung tâm" và khi đó
người dạy phải hiểu được yêu cầu của người học để cung cấp thông tin, định
hướng mục tiêu học tập, tổ chức, hướng dẫn người học chủ động tư duy, nhận
thức, thực hành, sáng tạo trong q trình tiếp nhận tri thức. Do đó, để đổi mới
PPDH mỗi giáo viên phải tìm kiếm, lựa chọn các phương thức hoạt động
chung cho phù hợp với học sinh nhằm thực hiện 3 chức năng của PPDH, gồm
nắm vững, giáo dục, phát triển. Phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ phát huy
hiệu quả, trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy. Một giờ dạy tốt của một
người thầy giỏi có khi in đậm trong trí nhớ của học sinh hàng mấy chục năm.
Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học những năm gần đây, chúng
ta phải tránh một nhận xét chung chung là: Chúng ta đã sử dụng phương pháp
dạy học lạc hậu trì trệ. Tuy nhiên, cũng khơng thể nói trong thực tế ngày nay
phương pháp truyền thống vẫn được coi là ưu việt, bởi thực chất của phương
pháp dạy học những năm vừa qua chủ yếu vẫn xoay quanh việc: “thầy truyền
đạt, trò tiếp nhận, ghi nhớ” thậm chí ở một số bộ mơn do thúc bách của quỹ
thời gian với dung lượng kiến thức trong một giờ (đặc biệt ở các lớp có liên
5
quan đến thi cử) dẫn đến việc “thầy đọc trò chép” hay thầy đọc chép và trò
đọc, chép”… Nói như vậy, cũng khơng phủ nhận ở một số khơng ít các thầy
cơ giáo có ý thức và tri thức nghề nghiệp vững vàng vẫn có nhiều giờ dạy tốt,
phản ánh được tinh thần của một xu thế mới.
Đã có rất nhiều giáo viên áp dụng phương pháp mới vào trong q trình
dạy học. Đó là PPDH hiện đại xuất hiện ở các nước phương Tây (ở Mỹ, ở
Pháp...) từ đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có
ảnh hưởng sâu rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là
cách thức DH theo lối phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế
thường gọi PP này là PPDH tích cực; ở đó, giáo viên là người giữ vài trò
hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những
tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là
trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. PPDH này rất đáng chú ý đến
đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo
viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý
kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hố các vấn đề, tổng kết bài giảng,
khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Giáo án dạy học theo PP tích cực được
thiết kế kiểu chiều ngang theo hai hướng song hành giữa hoạt động dạy của
thầy và học của trò. Ưu điểm của PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực
hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học.
1. 1. 4 Nguyên nhân
1. Sự bất cập nền công nghệ mới
Trong đợt tập huấn hè 2003-2004 cũng như các đợt tập huấn trước, hầu
hết giáo viên đều nhận thức được rằng: phương pháp giáo dục mới có nhiều
ưu điểm mà trước hết là phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh. Phù hợp với xu thế đổi mới của thời đại. Nhưng khi thực
hiện mới thấy không dễ chút nào. Trước hết phải hủy giáo án cũ, từ bỏ mọi kỹ
năng, kỹ xảo dạy học đã thành thói quen ăn sâu vào tiềm thức và tốn ít đầu tư.
6
Để rồi lại chong đèn lần mò, tham khảo, xây dựng, thử nghiệm phương pháp
giáo dục mới. Thành công cũng chẳng ai khen mà không thực hiện cũng chẳng
ai chê. Thế thì tội gì...
2. Hạn chế về năng lực chun mơn
Nhìn chung đội ngũ giáo viên hiện nay không đồng đều về chất lượng.
Một số chưa chuẩn hóa. Lực lượng giáo viên trẻ qua dự giờ thấy bộc lộ nhiều
hạn chế về nghiệp vụ chuyên môn do hệ thống lý luận giáo dục và chương
trình giảng dạy ở các trường sư phạm quá lạc hậu, thiếu thực tế. Sinh viên học
cái gì đó thì nhiều mà học nghề dạy học, cách dạy học lại quá ít. Chỉ chưa đầy
một chục tiết dạy trong mấy tuần thực tập đã thành nghề(?). Nói thiếu tin
tưởng vào lớp trẻ mới nghe trái tai nhưng thực tế khơng có gì là quá.
3. Thiếu lòng tin đối với học sinh
Một thực tế khó phủ nhận là học sinh ngày nay bị suy giảm khá nhiều
về khả năng tự học và các hoạt động tư duy như phân tích, so sánh, tóm tắt,
quy nạp...Nguyên nhân cũng khó phủ nhận là do hậu quả của phương pháp
giáo dục áp đặt, nhồi nhét trong thời gian khá dài của hệ thống giáo dục phổ
thơng. Vì vậy, qua thảo luận và đọc các bản thu hoạch của giáo viên trong các
đợt tập huấn, thấy đa số có quan điểm như sau: giáo dục phổ thơng mới chỉ
phù hợp với học sinh khá giỏi, thích hợp cho các trường chun hoặc trường
cơng lập có chất lượng cao, khơng phù hợp cho các trường bán cơng hoặc có
chất lượng đầu vào thấp(?). Có giáo viên nói thẳng: Nếu giảng dạy những
phương pháp trên thì học sinh trường này sẽ khơng biết gì. Dẫn chứng đưa ra
là những bài kiểm tra có tính suy luận hầu như các em đồng loạt bỏ giấy
trắng(?!).
Quan niệm trên không những thể hiện việc thiếu niềm tin đối với học
sinh mà còn trái với lôgic về lý luận. Thực ra, muốn học sinh phát huy được
khả năng tư duy để làm được những bài suy luận thì chỉ có cách duy nhất là
đổi mới phương pháp giáo dục.
7
4. Cơ chế quản lý chưa đủ sức và còn nhiều bất cập
Đặc thù nghề dạy học là giáo viên có "khoảng trời chun mơn" riêng,
dạy hết giờ, hết bài là hồn thành nhiệm vụ. Còn chất lượng thế nào khó ai bắt
bẻ được. Hiện tượng có giáo viên dạy trên lớp qua loa để giữ "bí quyết" nhằm
lơi kéo học sinh về nhà học thêm là có thực, nhưng nhà trường biết cũng đành
chịu. Trong khi đó, cuộc vận động đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay
không kèm theo một thể chế thi đua khen thưởng hoặc giám sát, kiểm tra đánh
giá nào. Phát động xong, ai muốn thực hiện hay khơng tuỳ. Khó có thể đặt hy
vọng lớn vào một cơng việc nửa vời như vậy.
Mặt khác, đổi mới phương pháp giáo dục đòi hỏi phải đổi mới phương
pháp đánh giá giờ dạy. Thế nhưng hiện nay, các trường phổ thông vẫn phải sử
dụng "hướng dẫn đánh giá giờ dạy" đã quá lạc hậu do Bộ Giáo dục - Đào tạo
ban hành cách đây nhiều năm. Chẳng khác gì nhét một đồ vật đã biến dạng
vào cái khn cũ.
5. Bệnh thành tích
Đại đa số giáo viên muốn đánh giá đúng thực chất kết quả học tập của
học sinh. Nhưng sau một năm làm việc nghiêm túc, cuối năm học lại phải tự
"phủ nhận" kết quả nghiêm túc của mình để tìm cách nâng điểm cho học sinh
do chỉ tiêu thi đua khống chế. Đó là sự thực ở nhiều trường phổ thơng hiện
nay. Cho nên nếu nhìn thẳng vào sự thực thì bệnh thành tích chủ yếu là của
các cấp quản lý. Từ đó sinh ra kết quả chất lượng ảo "bảo hiểm" cho học sinh
dẫn tới hiện tượng chây lười học tập và hình thành thói quen ỷ lại, trơng chờ
vào ngoại cảnh. Trong bối cảnh như vậy, giáo viên dễ bị thui chột ý chí và
lòng nhiệt tình, khơng mặn mà với sự đổi mới.
6. Trang thiết bị dạy học thiếu đồng bộ
Hiệu quả đổi mới phương pháp giảng dạy chưa cao vì nhiều yếu tố,
trong đó thiếu thiết bị dạy học cũng là một yếu tố. Thiết bị dạy học thường đi
sau trong khi đây là một yếu tố hỗ trợ GV đổi mới phương pháp giảng dạy.
8
Gần đây, cùng với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng, thiết bị dạy
học được ưu tiên đầu tư nhưng lại đầu tư khơng đồng bộ, nhiều nơi có thiết bị
nhưng thiếu phòng thí nghiệm khiến hiệu quả sử dụng chưa cao.
1. 1. 5 Các phương pháp dạy học tích cực
1. Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề
Phương pháp này có thể được xem như một cách xây dựng tổng thể một đề
cương giảng dạy hoặc là một trong những cách được người dạy áp dụng để
xây dựng đề cương giảng dạy cho một môn học. Phương pháp này xuất hiện
vào năm 1970 tại trường Đại học Hamilton-Canada, sau đó được phát triển
nhanh chóng tại Trường Đại học Maastricht-Hà Lan.
Phương pháp này ra đời và được áp dụng rộng rãi dựa trên những lập luận
sau:
- Sự phát triển như vũ bão của KHCN trong những thập niên gần đây, trái
ngược với nó là khả năng khơng thể dạy hết cho người học mọi điều.
- Kiến thức của người học thì ngày càng hao mòn từ năm này qua năm
khác, cộng thêm là sự chêch lệch giữa kiến thức thực tế và kiến thức thu
được từ nhà trường.
- Việc giảng dạy còn quá nặng về lý thuyết, còn quá coi trọng vai trò của
người dạy, chưa sát thực và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
- Tính chất thụ động trong học tập của người học so với vai trò truyền tải
của người dạy còn cao khi mà số lượng người học trong một lớp ngày
càng tăng.
- Hoạt động nhận thức còn ở mức độ thấp so với yêu cầu của thực tế (ví
dụ như khả năng đọc và khai thác một cuốn sách hoặc một cơng trình
nghiên cứu).
- Sự nghèo nàn về phương thức đánh giá người học, việc đánh giá còn
quá nặng về kiểm tra khả năng học thuộc.
9
Chính vì những lý do trên mà phương pháp dạy học dựa trên việc giải
quyết vấn đề xuất phát từ tình huống thực tế của cuộc sống, thực tế nghề
nghiệp được xây dựng dựa trên những yêu cầu sau:
- Phải có một tình huống cụ thể cho phép ta đặt ra được một vấn đề.
- Các nguồn lực (trợ giảng, người hướng dẫn, tài liệu, cơ sở dữ liệu…. )
đều được giới thiệu tới người học và sẵn sàng phục vụ người học.
- Các hoạt động phải được người học triển khai như đặt vấn đề, quan sát,
phân tích, nghiên cứu, đánh giá, tư duy,…
- Kiến thức cần được người học tổng hợp trong một thể thống nhất (chứ
không mang tính liệt kê), điều đó cũng có nghĩa là việc giải quyết vấn
đề dựa trên cách nhìn nhận đa dạng và chứng tỏ được mối quan hệ giữa
các kiến thức cần huy động.
- Phải có khoảng cách thời gian giữa giai đoạn làm việc trong nhóm và
giai đoạn làm việc độc lập mang tính cá nhân.
- Các hình thức đánh giá phải đa dạng cho phép chúng ta có thể điều
chỉnh và kiểm tra q trình sao cho khơng chệch mục tiêu đã đề ra.
Để đảm bảo mọi hoạt động có thể bao phủ được tồn bộ các u cầu trên,
Trường Đại học Rijkuniversiteit Limbourg tại Maastricht đã đề ra các bước
tiến hành như sau:
Bước 1: Làm rõ các thuật ngữ và khái niệm liên quan
Bước 2: Xác định rõ vấn đề đặt ra
Bước 3: Phân tích vấn đề
Bước 4: Lập ra danh mục các chú thích có thể
Bước 5: Đưa ra mục tiêu nghiên cứu và mục tiêu học tập
Bước 6: Thu thập thông tin
10
Bước 7: Đánh giá thông tin thu được
Trong số các bước trên, người học thường gặp khó khăn trong việc phân
tích vấn đề và tổng hợp các thông tin liên quan vấn đề.
Tác động tích cực của phương pháp dạy học dựa trên vấn đề
- Học viên có thể thu được những kiến thức tốt nhất, cập nhật nhất
- Có thể bao phủ được trên một diện rộng các trường hợp và các bối cảnh
thường gặp
- Tính chủ động, tinh thần tự giác của người học được nâng cao
- Động cơ học tập và tinh thần trách nhiệm của học viên được nâng cao
- Việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề ngày càng được bảo đảm
Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp này với cơ hội thành cơng cao đòi hỏi
chúng ta phải tiến hành một loạt những chuyển đổi sau:
- Chuyển đổi các hoạt động của người học từ tính thụ động sang tính tích
cực, chủ động
- Chuyển đổi các hoạt động của người dạy (người dạy có vai trò khơi dậy
các vấn đề và hướng dẫn người học)
- Chuyển đổi mối quan hệ giữa vai trò của người học và người dạy
- Chuyển đổi hệ thống đánh giá người học
- Coi trọng thời gian tự học của người học như thời gian học trên lớp
2. Dạy học theo nhóm
Để giúp người học tham gia vào đời sống xã hội một cách tích cực, tránh
tính thụ động, ỷ lại thì phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò
rất to lớn. Dạy học theo nhóm đang là một trong những phương pháp tích cực
nhằm hướng tới mục tiêu trên. Với phương pháp này, người học được làm
việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một thành viên trong nhóm đều có
cơ hội tham gia vào nhiệm vụ đã được phân công sẵn. Hơn nữa với phương
11
pháp này người học thực thi nhiệm vụ mà không cần sự giám sát trực tiếp, tức
thời của giảng viên.
Một nhiệm vụ mang tính cộng tác là nhiệm vụ mà người học khơng thể
giải quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng tác thực sự giữa các
thành viên trong nhóm tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tính độc lập giữa các
thành viên. Hơn nữa, người dạy cần phải có yêu cầu rõ ràng và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hợp tác giữa người học. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “hợp
tác” nhằm nhấn mạnh đến công việc mà người học tiến hành trong suốt quá
trình thực thi nhiệm vụ. Trong q trình hợp tác, cơng việc thường được phân
cơng ngay từ đầu cho mỗi thành viên.
Cần chú ý rằng tầm quan trọng của nhiệm vụ được phân công và vai trò
của nhiệm vụ sẽ quyết định động cơ học tập của người học. Người học sẽ có
động cơ thực hiện nhiệm vụ của mình nếu họ biết rõ được vai trò của các
nguồn thơng tin ban đầu, của các nguồn lực sẵn có, biết được ý nghĩa của vấn
đề, của các yếu tố đầu vào.
Để có được một nhiệm vụ hấp dẫn, có khả năng kích thích động cơ học tập
của người học, chúng tơi xin trình bày dưới đây các đặc trưng của một nhiệm
vụ hay.
Tác động tích cực của phương pháp dạy học theo nhóm.
Phương pháp dạy học theo nhóm có những tác động tích cực về mặt nhận
thức sau:
- Học sinh ý thức được khả năng của mình
- Nâng cao niềm tin của học viên vào việc học tập
- Nâng cao khả năng ứng dụng khái niệm, nguyên lý, thông tin về sự việc
vào giải quyết các tình huống khác nhau
12
Ngồi những tác động về mặt nhận thức, một số tác giả còn cho rằng
phương pháp này còn có tác động cả về quan điểm xã hội như:
- Cải thiện mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân
- Dễ dàng trong làm việc theo nhóm
- Tôn trọng các giá trị dân chủ
- Chấp nhận được sự khác nhau về cá nhân và văn hố
- Có tác dụng làm giảm lo âu và sợ thất bại
- Tăng cường sự tơn trọng chính bản thân mình
3. Dạy học thông qua việc làm đồ án môn học
Đồ án môn học thông thường được xây dựng từ một vấn đề gần gũi với
cuộc sống (nhu cầu, sự thiếu hụt, mâu thuẫn về nhận thức xã hội, mong
muốn tìm ra một điều gì mới mẻ,…) hoặc từ người dạy hoặc cũng có
thể là từ người học (cá nhân xây dựng hoặc một tập thể).
Việc xây dựng một đồ án môn học đòi hỏi người học phải có khả năng
tổng hợp kiến thức, có khả năng dự đốn, sáng tạo và tư duy đổi mới.
Trong quá trình xây dựng đồ án ln đòi hỏi phải có sự trao đổi, thảo
luận giữa người học và người dạy nhằm giải thích và thống nhất mục
tiêu.
Người học ln thấy được lợi ích và tạo được động cơ học tập bởi đồ án
luôn gắn liền với mục tiêu và các phương tiện để đi đến mục tiêu đó.
Cho phép người học:
-
Thu được nhiều kiến thức, kỹ năng
-
Nâng cao khả năng kiểm sốt tình huống thơng qua việc trả lời
các câu hỏi liên quan tới vấn đề, thơng qua những phát hiện trong q
trình tiến hành đồ án
13
-
Hiểu biết hơn về chính mình, những hạn chế của bản thân, đánh
giá được những nhu cầu của bản thân và cách thức mà mình đã tiến
hành.
1. 1. 6 Kỹ thuật thiết kế PPDH theo hướng tích cực
Để đổi mới PPDH theo quan điểm thiết kế cần nhấn mạnh những phương
hướng sau đây:
GV là chủ thể trực tiếp đổi mới PPDH, khơng ai làm thay được, và điều đó
diễn ra tại bài học, môn học, lớp học, trường học, trong q trình dạy học.
Cải thiện KN đã có nhưng chưa hiệu quả, học và bổ sung cho mình những
KN còn thiếu nhưng cần phải có để thực hiện kiểu PPDH mà mình chưa quen
sử dụng hoặc chưa có đủ nhận thức lí luận.
Thay đổi thói quen khơng phù hợp trong suy nghĩ và hành động dạy học,
nhờ thường xuyên chú ý áp dụng nhận thức lí luận về đổi mới dạy học và
những phương pháp luận dạy học hiện đại.
Phát triển những mơ hình KN mới của PPDH theo những kiểu PPDH mà
mình đã trải nghiệm thành cơng nhiều lần. Đó chính là sáng tạo PPDH mới ở
hình thái KN và kĩ thuật, đồng thời là sự phát triển giá trị, kinh nghiệm nghề
nghiệp, nâng cao tay nghề. GV thực hiện việc này qua suy nghĩ tìm tòi và trao
đổi với đồng nghiệp hàng ngày, học hỏi lẫn nhau.
Phát triển những phương tiện, học liệu và công cụ phù hợp nhất với mình
và phong cách của lớp, với nội dung và tính chất mơn học và tổ chức chúng có
hiệu quả nhằm thực hiện những kiểu và mơ hình PPDH mà mình đã chọn, đã
phát triển và đã có kinh nghiệm sử dụng thành công.
Trước khi tiến hành dạy học và thực hiện PPDH, cần phải thiết kế nó cùng
với thiết kế bài học, trong đó cố gắng đưa những đóng góp và sáng tạo của
riêng mình cũng như sáng kiến của đồng nghiệp vào thiết kế.
14