Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 112 trang )
51
có khoảng 16 bãi đá ngầm (miền Bắc: 8 bãi; miền Trung: 1 bãi; miền Nam: 7
bãi) gây nguy hiểm cho phương tiện nhất là vào mùa cạn.
-
Các vị trí mất an toàn giao thông do các công trình khác : đường ống,
đường dây qua sông, âu, kè:
-
Xác tàu đắm không được trục vớt ; xây dựng công trình xong không
thanh thải, dọn sạch (cột bê tông cũ, cột điện, trụ chống va, thậm chí cả trụ cầu
cũ) và hệ thống các âu tàu phục vụ nghành thủy lợi gây khó khăn, ách tắc các
phương tiện vận tải. Thống kê hiện có khoảng 54 vật chướng ngại, trong đó có
6 vật chướng ngại thường xuyên gây khó khăn và nguy hiểm cho phương tiện
hoạt động (miền Bắc: 4 chướng ngại; miền Trung: 1 chướng ngại).
Hình 2.2: Thanh thải vật chướng ngại trụ cũ Cầu Đuống
52
-
Các tuyến đường thủy nội địa quốc gia có khoảng 30 kè do bi sụt và
xói lở, phương tiện giao thông đường thủy nội địa qua các khu vực này còn
gặp nhiều khó khăn và cần thực hiện công tác điều tiết khống chế đảm bảo
giao thông.
-
Đường ống và đường dây điện bắc qua các tuyến sông khá nhiều, tuy
nhiên quá trình xây lắp và đưa vào hoạt động đến nay đảm bảo được tĩnh
không, ít ảnh hưởng đến giao thông thủy.
-
Khu vực dân cư lấn chiếm lòng sông, kênh rạch xây dựng nhà cửa, lấn
chiếm vào hành lang bảo vệ luồng c hạy tàu, thậm chí nằm trong luồng chạy
tàu. Các khu vực dân cư lấn chiếm sông kênh đã trở thành những khu vực
neo đậu phương tiện của người dân, thu hẹp luồng chạy tàu và thường xuyên
gây ùn tắc, đặc biệt trên các sông kênh trong nội đô các thành phố, thị xã, thị
trấn. Thực tế đã cho thấy khi bị người dân lấn chiếm xây dựng nhà cửa thì
giao thông đường thủy tại các khu vực này trở nên nguy hiểm , nguy cơ tai
nạn giao thông luôn thường trực và khi giải tỏa sẽ vô cùng khó khăn và tốn
kém tiền của của Nhà nước và của cả xã hội
. Hiện có khoảng 12 khu lấn
chiếm đang hoạt động luồn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông (miền
Trung: 3 khu; miền Nam: 9 khu).
-
Trên các tuyến đư ờng thủy nội địa Quốc gia đều có miệng đáy cá của
người dân đóng với mật độ khá dày , nhất là khu vực luồng tuyến gần cửa
sông, cửa biển , ngã ba sông . Đáy cá trên sông như một cái bẫy với tàu
thuyền qua lại , nhất là vào ban đêm , đã có nhiều vụ tai nạn gây chết người
hết sức thương tâm do đăng đáy cá gây ra
. Đăng đáy cá trở thành các vật
chướng ngại rất nguy hiểm trên luồng tuyến đòi hỏi phải được giải tỏa khỏi
phạm vi luồng chạy tàu , bố trí qu y hoạch lại tại những vị trí phù hợp . Qua
53
thống kê có 471 vị trí (1889 miệng đáy cá ) trong đó có 5 vị trí nằm trong
luồng đang rất nguy hiểm cho phương tiện hoạt động cần giải toả cấp bách.
-
Do tác động của dòng chảy, biến động địa chất tạo nên những đoạn
cua cong , gây ra lưu tốc dòng chảy rất lớn làm tàu thuyền bị hạn chế khả
năng ăn lái . Vào mùa lũ , bão mực nước trên các sông thường xuyên ở mức
cao. Trên các tuyến đường thủy nội địa có lưu tốc dòng chảy rất lớn, đặc biệt
là các khu vực có địa hình dốc ở vùng núi phía Bắc phương tiện thuỷ thường
xuyên bị mất lái tại các khu vực nước chảy xoáy , cua cong, phương tiện tập
trung nhiều nhằm tránh bão lũ.
-
Trên các tuyến đường thủy nội địa Quốc gia hiện có khoảng 17 đoạn
sông hẹp, cong, dòng chảy nguy hiểm trong đó có 7 khu vực (miền Bắc: 5
khu vực; miền Nam: 2 khu vực), có 50 vị trí, khu vực nguy hiểm cho người
và phương tiện đậu đỗ trong mùa mưa bão, lũ (miền Bắc 20 vị trí; miền
Trung: 18 vị trí; miền Nam: 12 vị trí), có 14 âu tàu các loại trong đó có Âu
Tắc Thủ thuộc sông Trèm Trẹm phục vụ công tác thuỷ lợi và ngăn mặn,
phương tiện hoạt động qua âu 1 chiều, thường xuyên gây ách tắc giao thông.
b)
Mất cân đối lớn giữa nhu cầu đầu tư và khả năng nguồn vốn
Thực trạng hoạt động đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông thuỷ nội địa ở
nước ta hiện nay đã chứng tỏ rằng có mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư ngày
càng lớn với khả năng cung ứng vốn hạn hẹp của nền kinh tế. Hoạt động đầu
tư quá lệ thuộc vào vốn ngân sách, mà nguồn ngân sách phân bổ cho giao
thông quá hạn hẹp. Nhiều dự án bị đình hoãn do không bố trí được vốn và
không khởi công được dự án mới.
Nhìn chung, các nguồn vốn huy động đều không đáp ứng được nhu cầu
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông về cả số lượng lẫn tiến độ cấp
vốn. Vì vậy mà nhiều công trình không đảm bảo tiến độ thi công, chất lượng
54
không đạt tiêu chuẩn, kết cấu hạ tầng giao thông không phát huy được hết
công suất làm lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc. Thực trạng trên vẫn tiếp
tục tiếp diễn nếu không có biện pháp huy động và sử dụng vốn hiệu quả.
Hình 2.3: Công trình cầu Nhật Tân qua tuyến sông Hồng
c)
Cơ cấu đầu tư theo ngành và theo nguồn vốn chưa hợp lý.
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông có sự mất cân
đối lớn. Ngành đường thuỷ nội địa được tập trung đầu tư chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng vốn của toàn xã hội cho xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, tai
nạn giao thông xảy ra đối với ngành đường thuỷ còn lớn. Ngành đường thuỷ
với lợi thế về địa lý tự nhiên vẫn chưa được đầu tư khai thác hết thế mạnh,
thiếu cảng nước sâu, cảng container chuyên dùng có khả năng tiếp nhận tàu
55
có trọng tải lớn. Ngành đường thuỷ ít được quan tâm đầu tư mở rộng nhưng
đó lại là một ngành mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường cao .
Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông phân theo nguồn
vốn cũng tồn tại hai thái cực chênh lệch khá lớn: một bên là vốn thuộc khu
vực nhà nước và bên kia là vốn của tư nhân và vốn trực tiếp nước ngoài. Vốn
nhà nước đóng vai trò quan trọng chiếm trên 90% trong đó vốn ngân sách
nhà nước chiếm 60-70%. Trong khi thâm hụt ngân sách ngày càng nhiều,
các khoản nợ của ngân sách tăng lên và không có khả năng bố trí vốn cho
các dự án. Để bù đắp cho các khoản bội chi ngân sách, nhà nước phải đi vay
trong nước và ngoài nước. Vì vậy, đầu tư cho hạ tầng giao thông đã làm tăng
gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Nguồn vốn ODA thì có xu hướng giảm
khi nền kinh tế ngày càng phát triển. Trong khi đó, nguồn vốn từ khu vực
dân cư hết sức dồi dào và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hết sức hiệu quả
lại chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ chưa được 10%. Cơ cấu trên đã bộc lộ
những điểm yếu khi không tận dụng được nội lực trong nước và nguồn lực
dồi dào từ bên ngoài kết hợp với vai trò điều tiết của nhà nước để phát triển
hạ tầng giao thông.
d) Tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí và kém hiệu quả
trong đầu tư xây dựng cơ bản của ngành giao thông.
Thất thoát lãng phí đang trở thành một vấn nạn trong hoạt động đầu tư
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả đầu tư. Đặc biệt các dự án đầu
tư xây dựng Kết cấu hạ tầng giao thông thủy bằng nguồn vốn nhà nước còn
nhiều yếu kém, thiếu sót và dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát,
kém hiệu quả...Trong điều kiện nguồn lực hạn chế, nhiều công trình dự án
khởi công, dẫn đến tình trạng vốn phân bố dàn trải cho tất cả các dự án, làm
cho tiến độ của nhiều dự án kéo dài do bố trí vốn không đáp ứng nhu cầu.
56
Bên cạnh đó, hiện tượng mua bán hợp đồng lòng vòng ở một số dự án BOT,
mua bán thầu, liên doanh trong thực hiện dự án ODA mà theo đó nhà thầu
trong nước trả phần trăm cho nhà thầu nước ngoài và nhận thi công 100%
hợp đồng dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn không cao, chất lượng công trình
không đảm bảo, tiến độ thi công bị ảnh hưởng và gây thất thoát, lãng phí
vốn.
Qua việc thanh tra cho thấy thất thoát trong hoạt động đầu tư xây dựng
là phổ biến, có dự án là có thất thoát lãng phí. Thất thoát, lãng phí do nhiều
nguyên nhân gây ra như: chất lượng quy hoạch thấp, do công tác đấu thầu,
do quản lý yếu kém...Dự án mà thất thoát nhiều đồng nghĩa với chất lượng
và thời gian tồn tại của dự án sẽ giảm. Do vậy muốn nâng cao hiệu quả đầu
tư chỉ còn cách loại trừ vấn nạn này.
-
Các công trình KCHT giao thông thiếu đồng bộ, không theo quy hoạch
và chất lượng chưa đảm bảo tiêu chuẩn, tiến độ dự án chậm
Một thực tế là hầu hết các công trình hạ tầng giao thông triển khai thực
hiện không đạt được kế hoạch đề ra. Nhiều dự án áp dụng công nghệ kỹ
thuật tiên tiến nhưng chất lượng không cao, không đạt được kết quả như
mong đợi hay theo thiết kế. Thực trạng đầu tư KCHTGT chủ yếu theo nhu
cầu của từng địa phương, từng ngành, từng tổng công ty mà không được quy
hoạch cụ thể. Thực tế, nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng hoặc là
không phát huy hết tác dụng, hoặc là không ăn khớp với hệ thống hạ tầng
hiện có và đặc biệt là xuống cấp một cách nhanh chóng (sụt cầu, kè chỉnh trị
hỏng, cảng bến xuống cấp, hỏng...).
e)
Một số nguyên nhân chủ yếu
Có thể liệt kê một số nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh những tồn tại
trong hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông thủy như sau:
57
-
Chủ trương, cơ chế chính sách chưa phù hợp, việc tổ chức thực hiện
còn nhiều lúng túng. Chủ trương của nhà nước trong những năm qua là đa
dạng hoá các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông song cơ chế
chính sách lại không thay đổi kịp thời để triển khai chủ trương đó. Chưa có
cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước
tham gia đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông thủy. Việc xây dựng các danh
mục dự án BOT, BT để kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
chưa cụ thể và chưa có những ưu đãi cần thiết.
-
Khâu lập kế hoạch chưa theo sát với tình hình thực tế, đề ra quá nhiều
các dự án trong khi khả năng bố trí vốn không đủ dẫn đến tình trạng mất cân
đối vốn đầu tư . Nguyên nhân do thiếu thông tin, khâu phân tích và dự báo
yếu và hạn chế trong công tác lập kế hoạch.
-
Chất lượng công tác quy hoạch còn thấp, chưa có tầm nhìn xa, chưa
thống nhất và đồng bộ, tính liên kết không cao. Trong quy hoạch đường bộ,
đa số các công trình giải quyết mang tính tình thế (nhu cầu đến đâu phát triển
đến đó); hệ thống các cảng biển, cảng sông, hệ thống sân bay chưa tính hết
sự gắn kết trong việc khai thác kết cấu hạ tầng hiện có và khả năng huy động
vốn, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm vốn đầu tư. Một số cảng
biển, cảng cá bố trí chưa hợp lý về địa điểm nên hiệu quả đầu tư chưa cao.
Những thiếu sót trong công tác quy hoạch đã dến đến lãng phí hàng trăm tỷ
đồng cho những dự án không hiệu quả, cho những cảng vừa xây dựng xong
lại chuẩn bị kế hoạch để di dời, cho những cây cầu ít người qua không có
khả năng thu phí hoàn vốn. Quy hoạch giữa ngành giao thông, quy hoạch
xây dựng và quy hoạch sử dụng đất chưa có tính liên kết với nhau và với quy
hoạch vùng, quy hoạch chung của cả nước. Ví dụ: quy hoạch cảng vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam đã không thể hiện nhất quáng trong triển khai cảng ở
58
các địa phương, làm cho tình trạng phát triển các cảng bị chia cắt, gây ắch
tắc cục bộ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chất lượng quy hoạch không tốt cũng
là nguyên nhân gây thất thoát lãng phí vốn đầu tư và chất lượng, hiệu quả
của dự án.
-
Quản lý hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của ngành giao thông vận
tải bộc lộ nhiều yếu kém. Quản lý theo kiểu “khép kín”, có nghĩa là Bộ
GTVT thực hiện mọi khâu của một dự án, từ quyết định đầu tư đến chủ đầu
tư, quản lý dự án rồi thi công. Ngoài ra, việc thanh tra, giám sát đầu tư chưa
thực sự hiệu quả, những trường hợp vi phạm chưa được xử lý đến nơi. Cơ
chế quản lý chưa quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể tham
qia dự án.
-
Năng lực của đội ngũ tư vấn trong nước (bao gồm tư vấn thiết kế và
giám sát thi công) không đáp ứng được yêu cầu. Hầu hết các dự án lớn đều
phải thuê tư vấn nước ngoài với chi phí khá cao, làm tăng vốn đầu tư cho dự
án. Chất lượng khảo sát thiết kế và lập tổng dự toán của tư vấn chưa cao. Có
những hồ sơ thiết kế dự án chưa thể hiện được tầm nhìn xa, đề xuất các giải
pháp kinh tế kỹ thuật chưa khả thi hoặc tốn kém không cần thiết, chưa quan
tâm một cách toàn diện đến các yếu tố xã hội, môi trường...
59
CHƯƠNG 3
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HẠ TẦN
GIAO THÔNG THUỶ NỘI ĐỊA THEO HƯỚNG PHÁT
TRIỂN GIAO THÔNG ĐƯỜNG THUỶ BỀN VỮNG
3.1.
Định hướng phát triển bền vững giao thông đường thủy
Định hướng phát triển giao thông vận tải đường thủy nội địa Việt Nam
đến năm 2020 của Bộ Giao thông Vận tải là tận dụng tốt nhất điều kiện tự
nhiên, đồng thời đầu tư tập trung có kế hoạch để phát triển tối đa lợi thế của
ngành vận tải thủy nội địa (vận tải hàng hóa khối lượng lớn, hàng siêu
trường siêu trọng, giá thành rẻ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường), đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo phát triển
bền vững. Tổng vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy
nội địa đến năm 2020 là khoảng gần 37.000 tỷ đồng.
T
1
Theo định hướng trên, giao thông đường thủy sẽ được phát triển một
cách đồng bộ về luồng tuyến, cảng bến, thiết bị bốc xếp, phương tiện vận tải
và năng lực quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu vận tải hàng hóa và hành khách
với chất lượng ngày càng cao, giá thành hợp lý và an toàn. Đầu tư kết cấu hạ
tầng đường thủy nội địa gắn kết với mạng lưới giao thông khác tạo thành hệ
thống liên hoàn, thông suốt. Kết hợp giữa phát triển giao thông đường thủy
nội địa với các ngành khác như thủy lợi, thủy điện. Mở một số tuyến vận tải
mới như tuyến ven biển, tuyến quốc tế, tuyến chuyên container. Phát triển
đội tàu vận tải theo hướng trẻ hóa (tuổi tàu bình quân là 5-7 năm), cơ cấu
hợp lý (tàu kéo đẩy 30-35%; tàu tự hành 65-70%); tổng trọng tải đội tàu là
12 triệu tấn; tăng chiều dài đường thủy nội địa được quản lý và khai thác vận
tải; hiện đại hóa hệ thống báo hiệu; kênh hóa các đoạn sông qua các đô thị
lớn. Bộ Giao thông Vận tải cũng đã có kế hoạch hiện đại hóa một số cảng
60
đầu mối, cảng chính ở các vùng kinh tế trọng điểm, cảng chuyên dùng; nâng
cao tỷ lệ cơ giới hóa bốc xếp đối với các cảng địa phương; xây dựng một số
cảng khách, bến khách.
Đến năm 2020 đảm bảo vận chuyển được 190-210 triệu tấn hàng và
530-540 triệu hành khách.
Để hỗ trợ cho phát triển giao thông thủy nội địa, Bộ Giao thông Vận
tải đang khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh vận tải.
Các doanh nghiệp nhà nước chỉ giữ thị phần khoảng 10-15% để đảm bảo vai
trò chủ đạo, tập trung vào các luồng hàng chủ yếu, một số mặt hàng chủ yếu.
Cũng như các chuyên ngành vận tải khác, GTVT thuỷ nội địa phải
được đầu tư phát triển trước một bước nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã
hội, cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Phát huy tối đa tính ưu việt của Giao thông vận tải thuỷ nội địa: vốn
đầu tư ít, giá thành vận tải rẻ, ít gây ô nhiễm môi trường, không chiếm đất
canh tác, dễ giải phóng mặt bằng và đền bù ít, có khả năng vận chuyển các
loại hàng hoá có khối lượng lớn, hàng cồng kềnh, hàng siêu trường, siêu
trọng… Kết hợp với lợi thế về điều kiện tự nhiên để phát triển GTVT đường
thuỷ nội địa.
Phát triển GTVT đường thuỷ nội địa phải đảm bảo sự cân đối, thống
nhất, đồng bộ giữa cảng, luồng lạch và đội tàu vận tải, giữa GTVT đường
thuỷ nội địa với các phương thức vận tải khác để tạo thành một mạng lưới
vận tải liên hoàn thông suốt khắp nước.
Tận dụng tối đa năng lực của cơ sở hạ tầng hiện có, chỉ đầu tư xây
dựng, nâng cấp ở nơi thực sự có nhu cầu và có hiệu quả, đồng thời chú trọng
phát triển GTVT thuỷ nội địa ở vùng sâu, vùng xa góp phần xoá đói, giảm
nghèo, giảm bớt sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn.