Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.43 MB, 161 trang )
• Đây còn gọi là học thuyết trung tâm hay tiền đề cơ
sở sinh học phân tử được F.Crick nêu ra từ năm
1956 đến nay căn bản vẫn đúng.
• Thông tin di truyền được đi từ DNA qua RNA rồi
đến protein. Vào những năm 70 phát hiện quá
trình phiên mã ngược từ RNA tổng hợp nên DNA
nhờ enzyme reverse transcriptase. Thông tin
không thể đi theo chiều ngược từ protein đến RNA.
3. DNA và mã di truyền (The
genetic code).
• Chúng ta đã biết có sự liên quan đồng tuyến tính
giữa DNA và phân tử protein, từ đó dễ dàng dự
đoán rằng trình tự đặc hiệu của các amino acid
trên phân tử protein sẽ được mã hóa bằng nhóm
các nucleotide trên phân tử DNA. Có tất cả 4 loại
base, nếu các base có nhóm đôi tức hai cái mã hóa
cho một acid thì tất cả chỉ có 16 tổ hợp, không đủ
cho 20 amino acid. Như đơn vò mã hóa hay còn gọi
là Codon phải gồm 3 hay nhiều nucleotide hơn
• Năm 1961 F.Crick đã làm thí nghiệm chứng minh rằng
nhóm nucleotide mã hóa có 3 hay nói cách khác codon
gồm 3 nucleotide. Tất cả sẽ có 43 = 64 tổ hợp codon.
• Vấn đề tiếp theo là xác đònh chính xác các codon nào
mã hóa cho từng amino acid. M.W.Nirenberg và
H.Matthaei (Mỹ) đã dùng enzyme theo phương pháp của
Ochoa tổng hợp RNA nhân tạo. Khi dùng chỉ một loại
nucleotide là uracil sẽ nhận được RNA là polyuracil, nếu
chỉ adenine sẽ được polyadenine.
• Năm 1961, khi dùng polyuracil thay cho mRNA để
tổng hợp protein trong hệ thống vô bào (có amino
acid, enzyme tổng hợp protein, nhưng không có
DNA...) sản phẩm nhận được là mạch polypeptide
polyphenylalanin chỉ chứa một loại amino acid là
phenylalanine. Điều đó chứng tỏ codon UUU mã
hóa cho phenylalanine. Đây là codon đầu tiên
được xác đònh. Nirenberg và Matthaei cũng chứng
minh được rằng AAA mã hóa cho lysine, GGG cho
glycine và CCC cho proline.
• Vào năm 1964, H.G.Khorana tìm ra phương pháp
tạo mRNA tổng hợp nhân tạo với trình tự lập lại
(như AAG AAG AAG...) và nhờ nó giải quyết xong
các vấn đề còn chưa rõ.
Bảng mã di truyền cho thấy trong 64 codon, có 3
•
codon UAA, UAG, UGA không mã hóa cho amino
acid được gọi là vô nghóa (non-sense), đồng thời là
codon kết thúc (termination) tức "dấu chấm câu",
tức chấm dứt mạch polypeptide.
Mã di truyền (The Genetic Code)
- Mã bộ ba (Triplet code)
vì 43 = 64
- Không chồng lắp (Non-overlapping),
không ngắt khoảng (unpunctuated)
- Gần như toàn năng (universal)
Codon = nhóm 3 nucleotide
Start codon (xanh lục) : AUG
Stop codons (đỏ) : UAA, UAG và UGA
Dư thừa (Redundant : chữ thứ 3 (3rd
letter)
Mã di truyền
Có thể có 3 kiểu mã di truyền