1. Trang chủ >
  2. Giáo án - Bài giảng >
  3. Cao đẳng - Đại học >

mRNA thông tin và thời gian tồn tại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.43 MB, 161 trang )


• Ngoài ra, ở đuôi 3’ sau dấu kết thúc (stop

signal) có đoạn 3’ không mã hóa (3’-non

coding) là nơi gắn poly-A. Như đã thấy ở

phần phiên mã mRNA có cấu trúc phức tạp.

Điều đó có lẽ liên quan đến sự biểu hiện

của gen do thời gian tồn tại ngắn hay dài

của mRNA.

• Các mRNA của Prokaryotae có cấu trúc đơn

giản có nửa thời gian (half time) tồn tại

ngắn: trung bình 2 phút. mRNA của

Eukaryotae có nửa thời gian tồn tại khoảng

30 phút đến 24 giờ.



b. Một gen có thể tạo một dòng mRNA

với nhiều đồng dạng (isoform)

• Khi biết tồn bộ hệ gen người và nhiều sinh vật nhân thực

khác, việc so sánh tổng số các loại protein với tổng số gen

thì số protein nhiều hơn gấp vài ba lần. Điều đó cho thấy

một gen có thể tạo ra nhiều hơn một loại protein. Việc cắt

bỏ intron và nối các exon (splicing) theo các kiểu khác

nhau là cơ chế chủ yếu tạo ra các mRNA khác nhau,

nhưng từ một gen có nhiều đoạn tương tự, nên coi như

một dòng mRNA biến dạng, mà sự dịch mã chúng tạo ra

dòng các protein biến dạng.



• Ví dụ điển hình sau đây minh họa rõ về cơ chế đó. Alphatropomyosin là protein điều hòa sự co trong các tế bào cơ

ở chuột. Bản phiên mã sơ cấp có thể cắt các intron nối các

exon hình thành dòng các mRNA khác nhau tùy loại tế

bào. Một số kiểu splicing là đặc trưng cho một số kiểu tế

bào nhất định. Ví dụ, α-tropomyosin tạo ra trong cơ vân

khác với nó được sản sinh bởi cùng một gen trong tế bào

cơ trơn hay tế bào não.

• Trong một số trường hợp, splicing khác nhau là cơ cấu

(constitutive); có nghĩa là mRNA qua cắt nối được các tế

bào của một sinh vật sản sinh ra liên tục. Tuy nhiên, trong

nhiều trường hợp tế bào điều hòa sao cho các dạng khác

nhau của protein được tạo ra đúng vào những thời điểm

khác nhau và ở các mơ khác nhau.



Splicing khác nhau của gen

α-tropomyosin



6. Ribozyme

• Trong một số trường hợp, RNA bên

trong intron tự cắt rời ra mà không cần

sự xúc tác của protein. Nhiều nghiên

cứu khác phát hiện khả năng xúc tác

của một số RNA và chúng được gọi là

Ribozyme. Phát hiện này có ý nghóa

quan trọng việc tìm hiểu cơ chế và

nguồn gốc sự sống.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.ppt) (161 trang)

×