Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 263 trang )
CHƯƠNG 5
CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA SÓNG DO GIÓ TẠO RA
5.1 Cơ chế tạo sóng do gió
5.1.1 Profile vận tốc gió và ứng suất gió trên mặt biển khơi
Loại trừ một số rất ít loại sóng gây ra do các nguyên nhân khác (như do tàu
thuyền đi qua v.v...) thì sóng biển là do gió tạo ra. Gió tác động lên mặt nước một ứng
suất nhất định. ứng suất này thông thường được đại diện bằng vận tốc ma sát. Vận tốc
gió trên mặt biển thường được biểu diễn bằng một chỉ số là độ cao đo vận tốc gió tính
bằng m từ mực nước biển (MWL) . Thí dụ, biểu thị vận tốc gió tại độ cao 10 m trên
mực nước biển. Giá trị vận tốc gió này thường được chấp nhận để sử dụng cho hầu hết
các hoạt động trên biển. Một giá trị rất thông dụng của vận tốc gió là giá trị tại độ cao
19,5m, bởi vì nhiều máy đo vận tốc gió trên các tàu lớn được đặt ở độ cao này. Tốc độ
gió có thể được đo bằng m/s, km/h, dặm/giờ, hay knots (hải lý trên giờ). Các giá trị
này liên hệ với nhau như sau:
1 m/s = 3.6 km/h = 2.24 dặm/h = 1.94 knots
Profile tốc độ gió trên biển khơi được Pierson (1964) chấp nhận là tốc độ gió do
Sheppard (1958) đề nghị cho các điều kiện của biển khơi là
(
)
1
U y / U 10 = 1 + C10/ 2 ln y / 10 / k
(5.1)
với U y là vận tốc gió tại độ cao y trên mặt biển, C10 là một hệ số trở kháng
phụ thuộc vào vận tốc gió, và k là hằng số von Karman (= 0.4). Ứng suất gió tác động
lên bề mặt nước được cho như sau:
τ = ρ a u*2
(5.2)
với ρ a là mật độ không khí và u* là vận tốc ma sát gần mặt nước. Ứng suất
này còn có thể được biểu thị như sau:
2
τ = ρ a C yU y
(5.3)
với C y là hệ số trở kháng, biến đổi theo vận tốc gió. Ứng suất này bị ảnh hưởng
bởi độ ghồ ghề của mặt nước do sóng gây ra.
Giá trị của hệ số C10 như trong phương trình (5.1) đã được Sheppard (1958) và
Wilson (1960) rút ra, và được Wu (1969) tổng kết lại. Silvester (1974a) đã dùng một
số kết quả để vẽ đồ thị và đề nghị một mối liên hệ sau:
53
1
C10 = 0.00065U 10/ 2
đối với U10 < 15 m/s , và một giá trị không đổi C10 = 0.0024 với
(5.4)
U10 ≥ 15 m/s . Thế
vào phương trình (5.1) cho ta các giá trị của vận tốc gió tại các độ cao như chỉ ra trên
hình 5.1. Giá trị của hệ số này tại các độ cao khác được rút ra nhờ sử dụng phương
trình (5.1).
Hình 5.1 Liên hệ giữa vận tốc gió tại 10m và 19.5m trên mực nước biển
5.1.2 Các lý thuyết về cơ chế tạo sóng do gió
Gió có thể tạo ra dòng chảy trong biển do tác dụng một ứng suất vào bề mặt biển,
hoặc là tạo sóng do các biến động áp suất. Một khi đã có gió thì sẽ có những xoáy rối
do gió gây ra. Các xoáy rối này được gió vận chuyển đi theo hướng gió, đồng thời
chuyển động lên xuống phía trên bề mặt nước. Những biến động áp suất gây ra do
chuyển động của các xoáy rối này sẽ tạo ra những dao động trên bề mặt nước và như
vậy tạo ra sóng. Dòng chảy do gió tạo ra trên bề mặt cũng ảnh hưởng tới nước ở một
độ sâu nào đó.
Sự lõm của bề mặt nước gây ra bởi các xoáy rối là rất nhỏ, tuy nhiên, khi được
duy trì trong một khoảng thời gian nào đó cùng với phần lồi lên của mặt nước do nó
tạo ra, nó sẽ phát triển. Điều này cũng giống như một luồng gió chạy trên mặt nước
như trong hình 5.2 mà độ lớn của tốc độ gió sẽ tạo nên một bước sóng nào đó. Nếu
như luồng gió đứng yên thì sẽ không có sóng tạo thành. Nếu như nó chuyển động
chậm thì phần lõm xuống sẽ tự biến mất. Tuy nhiên, nếu như nó chuyển động với tốc
độ bằng với tỷ lệ giữa bước sóng và chu kỳ, sóng sẽ lớn lên. Rối trong không khí là rối
ba chiều, vì vậy, các chỗ lõm là ngẫu nhiên cả về không gian và thời gian. Như vậy,
sóng được tạo thành tại rất nhiều hướng mà chỉ những sóng chuyển động cùng tốc độ
54
với các xoáy rối là lớn lên. Góc cộng hưởng với hướng gió càng lớn thì chu kỳ sóng
càng nhỏ, và sóng có chu kỳ lớn nhất là sóng chuyển động theo hướng gió.
Luồng giú
Hình 5.2 Sóng gây ra bởi một luồng gió chuyển động (Theo Silvester và Hsu, 1997)
Một khi gió đã thổi thì nó sẽ tạo ra rất nhiều sóng có độ cao và chu kỳ khác
nhau. Một khi sóng đã được tạo ra trong một khoảng thời gian đủ dài, các sóng ngắn
sẽ phát triển đến một độ cao tới hạn nào đó và sau đó sẽ bị vỡ. Các sóng dài cũng giúp
cho quá trình sóng vỡ bằng cách làm giảm bước sóng của các sóng ngắn nằm trên
đỉnh của nó (Longuet Higgins và Stewart 1960; Wu 1971) và làm cho chúng vỡ trên
mặt trước của các sóng này (hiện tượng sóng bạc đầu). Đây cũng là một phương pháp
dịch chuyển năng lượng từ các sóng thành phần ngắn tới các sóng thành phần dài và
làm tăng độ cao của các sóng thành phần dài. Khi mà đà và thời gian tác động của gió
tăng lên, tổng năng lượng của sóng sẽ tăng lên tới khi bão hoà và tất cả năng lượng gió
hấp thụ được sẽ bị tiêu tán do sóng vỡ. Trạng thái này được gọi là sóng phát triển hoàn
toàn hay FAS. Khi đó các đặc trưng sóng phụ thuộc vào tốc độ gió dừng mà không
phụ thuộc vào đà hay thời gian tác động của gió.
Ở đây sẽ trình bày ngắn gọn bốn giai đoạn tạo sóng xảy ra đồng thời, đã được
Silvester (1974a) và rất nhiều nhà nghiên cứu khác thảo luận rất kỹ. Các cơ chế này là
cộng hưởng, dòng cắt, hiệu ứng che chắn và sóng vỡ.
Phillips (1957) đã có những đóng góp đáng kể cho ngành hải dương học do đã
đề xuất rằng các nhiễu động ngẫu nhiên của áp suất trên bề mặt nước là nguồn gốc của
chuyển động sóng. Các dao động áp suất này phải tác động trong một khoảng thời
gian đáng kể trong lúc chuyển động trên mặt nước với một vận tốc bằng vận tốc
truyền sóng. Các xoáy rối nhỏ gần mặt nước chuyển động chậm hơn các xoáy rối lớn
nằm cách xa mặt nước hơn. Tuy nhiên, các sóng có chu kỳ khác nhau có thể được tạo
thành đồng thời, và như đã trình bày ở trên, các sóng nhỏ hơn phát triển nhanh hơn.
Những dao động này không nhất thiết phải lan truyền theo hướng gió, mà có thể lan
truyền theo một hướng tạo với hướng gió một góc nào đó. Quá trình cộng hưởng này
chỉ áp dụng cho các sóng có độ cao rất nhỏ và không được tính đến khi nghiên cứu
liên kết biển khí. Sau quá trình bắt đầu này, các quá trình tạo sóng khác xảy ra.
55
Đồng thời với thời điểm mà Phillips công bố lý thuyết của mình, Miles (1957)
đưa ra lý thuyết dòng chảy cắt dựa trên phân bố logarit của vận tốc gió theo phương
thẳng đứng. Tuy rằng bỏ qua các dao động rối, lý thuyết này tính đến áp suất tác dụng
theo phương thẳng đứng với bề mặt nước. Nó giả thiết rằng mặt nước ban đầu bị
nhiễu động khi có gió thổi ở phía trên sẽ tạo ra những vùng hút và nén không cùng pha
với sóng. Điều đó gây ra lực tác động lên mặt sau của đỉnh sóng làm cho mặt nước tại
đây chuyển động xuống phía dưới. Việc này giúp cho sóng phát triển. Tuy nhiên, lý
thuyết này trở nên bất cập khi mà các đường dòng tách khỏi bề mặt đỉnh sóng. Khi đó,
sự phát triển của sóng cần được giải thích bằng một số cơ chế khác. Stewart (1961) đã
làm việc này.
Hai lý thuyết trên bổ sung cho nhau vì rằng cộng hưởng do rối tạo ra những
dao động ban đầu với một phổ chu kỳ rộng, trong khi dòng chảy cắt giúp cho các sóng
ngắn hơn phát triển. Cộng hưởng tạo ra sự gia tăng năng lượng một cách tuyến tính,
trong khi cơ chế thứ hai tạo ra sự gia tăng năng lượng theo hàm mũ. Các sóng có vận
tốc truyền gần với tốc độ gió (hay c/U → 0.8) có thể đạt tới độ dốc tới hạn (H/L) chỉ
bằng cách phát triển theo cơ chế cộng hưởng. Các sóng ngắn hơn (c << U) sẽ vượt qua
giai đoạn phát triển tuyến tính và phát triển theo hàm mũ trước khi đạt tới giới hạn này.
Phillips và Katz (1961) đã tính thời gian thực hiện việc chuyển đổi này đối với các
sóng có chu kỳ khác nhau. Longuet-Higgins và những người khác (1963) đã đo sóng
bằng phao và kết luận rằng 90% dao động áp suất không khí là phối hợp với sóng và
chỉ 10% là phối hợp với rối do gió.
vector vỡ của
các sóng nhỏ
chuyển động hạt
của các sóng lớn
gió cắt mạnh
Hình 5.3: Sự chuyển dịch động năng có thể có từ các sóng ngắn bị vỡ cho các sóng có
chu
kỳ dài (theo Silvester và Hsu, 1997)
Sóng tiếp tục phát triển quá các điều kiện được Miles dự báo bằng một cơ chế
gọi là hiệu ứng che chắn. Điều này có nghĩa là tồn tại một lực hút ở mặt trước và một
lực đẩy ở mặt sau của các sóng đã hình thành. Stanton (1937) đã khẳng định sự tồn tại
của cơ chế này và nhờ nó mà Jeffreys (1925) đã giải thích quá trình hình thành sóng
một cách hoàn chỉnh. Chỉ có áp suất tác dụng theo phương vuông góc với mặt nước là
được tính đến còn lực tác dụng theo phương tiếp tuyến với bề mặt là bị bỏ qua. Vì các
hạt nước tại đỉnh sóng chuyển động theo hướng gió, dường như là bất kỳ một ứng lực
nào tác động lên nó cũng có xu hướng gia tăng đường kính của quỹ đạo hạt, tức là gia
tăng độ cao sóng. Hino (1966) liên kết các phương trình của Phillips và Miles mà
56
không dùng một yếu tố thực nghiệm nào. Ông đã chứng minh rằng ở trạng thái FAS
(sóng đã phát triển hoàn toàn), đóng góp của áp suất trong ứng lực toàn phần đạt tới
100%, trong lúc tại đầu đón gió của đà, đóng góp này chỉ là 50%. Điều này có thể hiểu
được là vì độ ghồ ghề của bề mặt nước tăng lên dọc theo đà, và như vậy cho phép gió
tác động tốt hơn tới sóng. Trạng thái ổn định sẽ đạt tới khi mà năng lượng hấp thụ
được từ gió được tiêu tán bởi sóng vỡ, rối, nhiều hiệu ứng khác và dòng chảy gió.
Sóng vỡ là một phần rất quan trọng của quá trình tạo sóng mà nhiều nhà nghiên
cứu cho là một cơ chế tiêu tán năng lượng. Tuy nhiên, khi mà sóng vỡ, như đã chỉ ra
trên hình 5.3, động năng có thể được chuyển đổi sang chuyển động quỹ đạo của các
hạt nước mặt. Quá trình vỡ trên đỉnh của các sóng dài hơn có thể được gia tăng nhờ
tốc độ gió. Tuy nhiên, khi mà tốc độ lan truyền của các sóng dài này tiệm cận tới vận
tốc gió, (C/U = 1.0), quá trình này suy giảm và do vậy kết thúc quá trình gia tăng năng
lượng. Longuet-Higgins (1969) đã đưa ra cơ sở lý thuyết cho quá trình chuyển đổi
năng lượng từ các sóng ngắn hơn tới các sóng dài hơn. Ông phát biểu rằng "Khi mà
các sóng ngắn suy giảm nhanh chóng vì buộc phải vỡ trên mặt trước của các sóng dài,
năng lượng của các sóng dài được gia tăng nhanh chóng. Các kết quả tính toán cho
thấy rằng cơ chế này có khả năng truyền năng lượng cho sóng biển với một tốc độ
quan trắc được."
sóng vỡ
Khu vực tỷ lệ với năng
lượng trên một đơn vị
diện tích bề mặt đại
dương
tăng theo hàm mũ
tăng theo quy luật tuyến tính
vòng/giây
Hình 5.4 Phổ năng lượng đặc trưng cho sóng đại dương
Chuỗi số liệu đo đạc sóng tại một số điểm trong đại dương có thể được phân tích
để cho ta năng lượng của các thành phần theo tần số (f). Phân bố năng lượng theo tần
số này có thể được vẽ thành đồ thị, như đồ thị trên hình 5.4, mà ở đó năng lượng được
đo bằng bình phương biên độ của mỗi sóng thành phần với tần số f.
5.1.3 Sóng gió và sóng lừng
Nếu như sóng vẫn đang được tạo thành và duy trì nhờ gió, sóng được gọi là sóng
gió. Sóng đã rời khỏi khu vực tạo sóng và phân tán trên biển được gọi là sóng lừng.
Mỗi loại sóng có các tính chất riêng biệt và ảnh hưởng khác nhau tới động lực học ven
bờ.
Sóng gió: Các dao động của bề mặt nước là rất phức tạp, bao gồm các sóng có
57
bước sóng và độ cao khác nhau, lan truyền theo các hướng khác nhau. Vì vậy, quá
trình này tạo ra các sóng chính có độ dốc lớn, và chúng làm cho các sóng nhỏ vỡ ra
trên mặt của chúng. Điều này làm cho các sóng dốc hơn trở thành bất đối xứng và dốc
hơn ở mặt trước. Các đặc trưng này làm cho sóng gió dễ dàng bị vỡ và như vậy những
vùng nước nông hay dòng chảy ngược dễ dàng tiêu tán những sóng này. Bản chất đa
hướng của sóng gió được vẽ trên hình 5.5, với các sóng ở đầu gió chủ yếu là các sóng
ngắn và lan truyền theo hướng gió. Tiến thêm về phía cuối gió ta thấy rằng các sóng
lớn hơn và dài hơn có xu hướng lan truyền theo hướng gió hơn, nhưng không phải
hoàn toàn như vậy. Điều này mang lại tầm quan trọng của chiều rộng đà trong quá
trình tạo sóng, bởi vì các sóng ngắn lan truyền theo một hướng xiên với hướng gió cần
phải đạt tới sự bất ổn định và vỡ để năng lượng của chúng biến thành năng lượng của
các sóng dài hơn. Một đà rất hẹp sẽ không cho phép điều này xảy ra, loại trừ trong mô
hình máng sóng hay vực sâu gần cửa sông khi mà phản xạ sóng xảy ra.
Sơ đồ phân bố năng lượng theo hướng của sóng được vẽ trên hình 5.6, với các
đường trung bình cos 2 θ và cos 4 θ áp dụng riêng rẽ cho các sóng ngắn và dài. Như
ta đã thấy, một phần năng lượng được vận chuyển gần như là theo các hướng vuông
góc với hướng vector gió cả hai bên.
Chiều dài đà
Chiều rộng đà
Hướng gió
Hình 5.5 Dạng đỉnh đặc trưng của sóng dọc theo đà (Theo Silvester và Hsu,
1997)
Sóng dài nhất
Năng lượng sóng
tương đối
Trung bình
Trung bình
Sóng ngắn
nhất
Góc tạo thành với hướng gió trung
Hình 5.6 Phân bố năng lượng theo hướng trong các sóng có chu kỳ khác nhau
trong điều kiện gió đặc biệt (Theo Silvester và Hsu, 1997)
58
Sóng lừng: Các sóng có một chu kỳ nào đó trong đà sẽ có một hướng phát triển
tối ưu, như ta thấy trên hình 5.4. Một khi đã được tạo thành, các sóng này sẽ lan
truyền theo hướng cho trước và đi ra khỏi miền gió lớn hay bão. Các sóng này được
gọi là sóng lừng và lan truyền qua một khoảng cách rất dài, thậm chí là vượt đại
dương. Trong miền cuối gió hay miền phân tán, như thấy trên hình 5.6, các sóng phân
tán theo hình tròn và theo các tia từ cuối của đà.
Phạm vi của hướng
sóng lừng
Thoát ra
Phạm vi của đỉnh
sóng
Hướng gió
Vùng tiêu tán
Độ rộng của năng lượng
sóng
Phổ tồn tại trong cùng thời gian
Hình 5.8 Phổ sóng và sự lan truyền sóng trong vùng phân tán (Theo
Silvester và Hsu, 1997)
Phần lớn năng lượng sóng tập trung vào khoảng 30o xung quanh vector tốc độ
gió. Phần của năng lượng FAS lan truyền tới bất cứ điểm nào cuối gió được quyết
định bởi góc tạo bởi hai đường thẳng nối hai biên giới của đà tới điểm đó. Điểm đó
càng ở xa thì góc càng nhỏ và càng ít năng lượng từ vùng gió mạnh được lan truyền
tới. Như vậy, chiều rộng của đà có tầm quan trọng rất lớn đối với kích thước của các
sóng lừng trong vùng phân tán, hay đôi khi được gọi là vùng suy giảm, bởi vì năng
lượng của sóng không bị tiêu tán mà chỉ bị phân tán rộng ra. Khoảng cách càng lớn thì
càng ít sóng có thể tương tác, và như vậy là độ cao sóng càng giảm.
Sóng trong phạm vi đà có thể ổn định trong một khoảng thời gian nào đó sau
một khoảng thời gian ổn định tại một điểm cho trước. Tuy nhiên, trong miền phân tán
sóng lừng sẽ thay đổi liên tục bởi vì các sóng dài hơn sẽ tới một điểm nào đó trước,
sau đó là các sóng có chu kỳ trung bình với độ cao lớn hơn, và sau cùng là các sóng
nhỏ với chu kỳ ngắn nếu như chúng có thể tới điểm đó. Điều này được biểu thị bằng
phổ sóng tại các điểm khác nhau trong phạm vi miền phân tán như trên hình 5.8. Phần
59
diện tích phía bên dưới đường cong phổ diễn tả độ cao sóng thống kê H 1 / 3 , hay độ
cao trung bình của 1 phần 3 số sóng lớn nhất (thường được xem là độ cao sóng có
nghĩa), thường được dùng trong thiết kế kỹ thuật. Trong vùng tam giác, lân cận phần
cuối gió của đà, tất cả các sóng thành phần chuyển động đồng thời và như vậy dạng bề
mặt biển cũng phức tạp y như ở trong đà, trừ việc sóng không bị vỡ.
sóng lừng nhỏ
sóng lừng
lớn
đường đi của hoàn
lưu lục địa
Hình 5.9 Quỹ đạo của các cơn bão trong khoảng 40-60o độ vĩ (Davies, 1964)
Một đặc điểm nữa của sóng lừng là tính bất biến của hướng sóng tại các điểm
khác nhau ở trên bờ. Mặc dù đà sóng có thể trải rộng theo một vĩ độ, các sóng lừng
xuất hiện từ vùng này tập trung trong một dải hướng hẹp, đặc biệt là khi chúng bị
khúc xạ qua một thềm lục địa nông trước khi vào tới đường bờ. Như ta đã thấy trên
hình 5.8, các sóng đi qua một điểm cách xa đà sóng có hướng rất gần nhau. Thậm chí
nếu như đà sóng dịch chuyển sang bên một chút, các sóng xuất hiện từ đà về cơ bản là
có cùng hướng. Một đặc điểm quan trọng của sóng bão trên đại dương là chúng được
gây ra bởi các cơn bão di chuyển từ tây sang đông giữa các vĩ độ 40o tới 60o ở cả hai
bán cầu, như chỉ ra trên Hình 5.9 (Davies 1964). Quỹ đạo của các cơn bão dao động từ
bắc tới nam theo mùa. Một số các cơn bão thậm chí vượt qua vĩ tuyến 30o trong một
khoảng thời gian ngắn. Như ta đã thấy trong hoàn lưu gió tại mỗi bán cầu, các sóng
bão mạnh nhất, và như vậy là các sóng lừng chính, lan truyền từ hướng đông tới xích
đạo. Do vậy bờ tây của các lục địa luôn tiếp nhận các sóng lừng từ hướng đó. Ở các bờ
đông sóng lừng tới từ phần đuôi các cơn bão di chuyển từ bờ ra khơi. Trường sóng ở
đây được bổ sung bởi các sóng lừng và sóng bão giữa các vĩ độ 10o và 25o tại cả hai
bán cầu. Các sóng này có xu hướng lan truyền về phía tây và đi khỏi đường xích đạo.
Vì vậy, chế độ sóng tại các bờ phía đông và phía tây lục địa có thể khác nhau một cách
đáng kể. Thậm chí tại vị trí mà tâm bão ở gần với một bờ biển trước khi vượt qua nó,
các sóng lừng sẽ tập trung vào một dải hẹp trong lúc các sóng bão tại nước sâu có thể
trải ra một dải rất rộng, như chỉ ra trên hình 5.10.
Các sóng lừng có độ cao nhỏ so với bước sóng, hay là độ dốc của chúng (H/L) là
nhỏ. Do đó chúng có dạng hình sin và rất bền vững. Khi mà chúng vượt qua đại
60
dương, quỹ đạo chuyển động của các hạt nước không đạt tới đáy và do vậy chúng mất
rất ít năng lượng. Một đặc tính khác của sóng lừng là chúng có khoảng thời gian tồn
tại dài hơn. Cần một khoảng thời gian dài hơn cho các sóng có chu kỳ khác nhau đi
qua một điểm cách xa đà hơn là thời gian chúng tồn tại trong phạm vi đà. Snodgrass
và những người khác (1966) ghi sóng tại năm điểm cắt ngang Thái Bình Dương từ
vùng “biển động 40” (40, 50o S) tới Alaska. Họ thấy rằng: “Cứ một hay hai tuần lại
thấy một chuỗi sóng liên quan tới một cơn bão lớn ở nam bán cầu, gây ra một “sự
kiện” đáng kể, mà có thể tìm được dấu vết qua toàn bộ đại dương.” Các sóng lừng bị
suy giảm rất ít khi lan truyền ra khỏi vùng mà chúng được tạo ra. Quá trình suy giảm
mạnh mẽ nhất xảy ra với các thành phần có chu kỳ nhỏ là do chúng phân tán tại các
góc lớn đối với hướng gió.
CHÚ Ý
sóng lừng
mạnh
sóng lừng yếu
bão
mạnh sóng
yếu
h
Hình 5. Sóng tới từ các cơn bão ở gần một bờ biển
5.2 Mô tả sóng gió
Bước đầu tiên của việc mô tả sóng gió là xem xét chuyển động thẳng đứng của
bề mặt nước tại một vị trí nào đó trên mặt biển. Khi đó, ta sẽ thấy là sóng gió được
61
biểu thị bằng một hàm khá ngẫu nhiên phụ thuộc thời gian. Có thể biểu thị sự biến đổi
không gian của bề mặt nước khi có sóng bằng cách xem rằng có sự tương tự giữa biến
đổi không gian và biến đổi thời gian của mặt nước.
Mặt nước khi có sóng gió, biểu thị bằng ζ (t ) thường là khá hỗn loạn và không
cho phép mô tả nó bằng một phương pháp xác định. Nói chung, không thể dự báo
được ζ (t ) vì nó là một hàm ngẫu nhiên của thời gian.
Hãy xem xét một khoảng thời gian D đủ ngắn để có thể coi các điều kiện sóng
là dừng, nhưng đủ dài để có thể lấy được các giá trị trung bình có ý nghĩa. Đối với
các quan trắc trên biển, khoảng thời gian này thường được lấy là 15-30 phút. Giá trị
trung bình của ζ (t ) được giả thiết là bằng không. Một đoạn băng ghi sóng trong một
cơn bão thực như đã trình bày ở trên được cho trên Hình 5.11.
Mặt nước biển ζ
(t )
Thời gian
đường không từ trên
Mặt nước biển
Hình 5.11 Mặt nướcđường không từlà một hàm của thời gian trong cơn bão gần
biển như dưới
ống
lên
Petten, Hà lan, cách bờ 3500 m, ngày 1 tháng 1 năm 1995
(Holthuijsen và Battjes, 2002).
Mặt nước biển
62