Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 263 trang )
Eζζ ( f )
Hình 6.5 Phác thảo mật độ phổ variance
Để làm rõ hơn khái niệm này, ta hãy xem xét biến đổi thời gian của mặt nước đối
với MSL tại một điểm cố định {ζ (t )} khi có sóng gió. Variance của mặt nước được
viết là var ζ hay σ ζ2 . Mật độ phổ variance liên quan với biến đổi này được viết là
S ( f ) , trong đó f là tần số của một thành phần phổ, hay là số các dao động trong một
đơn vị thời gian (trong hệ đơn vị SI: [f] = 1 Hz). Mật độ phổ được định nghĩa sao cho
việc tích phân trên một khoảng tần số nào đó, thí dụ từ fa tới fb (xem hình 6.5) là bằng
với sự đóng góp của các thành phần phổ có tần số nằm trong khoảng trên vào variance
tổng cộng σ ζ2 :
fb
∫ S ( f )df
= Δ[var ζ ]a ,b
(6.28)
fa
Nếu ta tích phân theo tất cả các tần số từ 0 tới ∞ , ta sẽ có variance tổng cộng:
∞
∫ S ( f )df
= var ζ = σ ζ2
(6.29)
0
Mặt khác, nếu khoảng tần số có một dải rất hẹp với chiều rộng Δf (xem hình
6.5), phương trình 6.28 trở thành:
S ( f )Δf = Δ[var ζ ]
(6.30)
hay
Δ[var ζ ]
(6.31)
S( f ) =
Δf
79
Các phương trình này cho ta ý nghĩa của S ( f ) : nó chỉ ra rằng variance (hay
năng lượng) tổng cộng phân bố theo tần số của các thành phần phổ như thế nào.
Phương trình 6.62 chỉ ra rằng S ( f ) có nghĩa của variance trên một đơn vị tần số.
Trong hệ SI, đơn vị của nó là m2/Hz. Điều này giải thích ý nghĩa của tên hàm là mật
độ phổ variance. Tập hợp các giá trị của mật độ phổ của tất cả các tần số là mật độ phổ
variance, hay thường được gọi một cách đơn giản là phổ variance hay phổ năng
lượng.
Phổ variance trong một mức độ đáng kể có thể được đặc trưng bằng một dãy các
moment phổ, định nghĩa như sau
∞
mn = ∫ f n S ( f )df
(n = 0, 1, etc.)
(6.32)
0
Moment bậc không ( m0 ) chỉ là diện tích phía dưới đường cong phổ, hay là
variance của quá trình (xem phương trình 6.29). Ký hiệu này của variance thường
được dùng để nhấn mạnh mối liên hệ của nó với phổ. Tỷ số m1 / m0 biểu thị khoảng
cách từ “tâm trọng lực” của phổ tới đường f = 0. Nói cách khác, theo một số nghĩa thì
nó diễn tả một tần số trung bình. Điều này cũng đúng cho đại lượng (m2 / m0 )1 / 2 (“bán
kính hồi chuyển” của phổ đối với đường f = 0). Sự khác nhau giữa hai đại lượng này là
thước đo chiều rộng của phổ.
Trong thực tế, phổ năng lượng hay là phổ variance được tính từ một chuỗi số liệu
mực nước đo đạc được trong khoảng T bằng cách khai triển các tín hiệu ghi được (với
một giá trị trung bình bằng không) thành một chuỗi Fourier, tức là một chuỗi với với
các hàm sine hay cosine phù hợp với số nguyên thời gian của khoảng thời gian ghi
nhớ T, và vì vậy các tần số rời rạc có thể được xem là bội số của các tần số (điều hoà)
cơ bản 1/T:
η (t ) = ∑ a n cos(2π f n t + α n )
(6.33)
n
trong đó:
f n = nf 1 = n / T for n = 1, 2, ….
(6.34)
Chú ý rằng các tần số rờ rạc fn là đồng khoảng cách vì rằng Δf n ≡ f n+1 − f n = 1 / T ,
đọc lập với n.
Có thể chứng minh rằng trung bình bình phương của (6.33) là:
80
N
1 2
E { 2 (t )} = ∑ an
η
n =1 2
(6.35)
Đây là một giá trị ước tính của quá trình mà số liệu được lấy mẫu. Vì vậy, đại
lượng
(1 / 2)an2 là phần đóng góp của thành phần phổ với tần số
f n tới giá trị ước
tính của variance. Tập hợp của các giá trị này, được coi như là một hàm của các tần số
rời rạc f n cho ta giá trị xấp xỉ của mật độ phổ variance liên tục. Mối liên hệ giữa hai
đại lượng có thể được biểu thị bằng
1 2
an = S ( f n )Δf n
2
(6.36)
Eζζ ( f )
Hình 6.6 Chuỗi số liệu mực nước và phổ variance tương ứng (Battjes,
1984)
2
Thực ra, vì những sai số lấy mẫu trong 1 / 2a n (ước tính từ chỉ một thể hiện), đây
không phải là một phương pháp đáng tin cậy để ước tính S ( f ) . Cần phải lấy trung
2
bình trên một tập hợp các giá trị 1 / 2a n để có được một đánh giá đủ tin cậy. Tuy nhiên,
chúng ta sẽ không nghiên cứu thêm về vấn đề này ở giáo trình này.
Hình 6.6 cho ta một thí dụ về một chuỗi số liệu ngắn của mực nước và một phổ
81
mật độ variance ước tính tương ứng, chú ý tới tỷ lệ vẽ phổ. Để kiểm tra sơ bộ các số
và diễn giải ý nghĩa của phổ, chúng ta có thể xấp xỉ đường cong phổ bằng một tam
giác với giá trị trên đỉnh bằng 20m2/Hz và giá trị dưới đáy bằng 0.1Hz. Từ đó, chúng
ta có thể ước tính được diện tích phía dưới đường cong (variance) là
1/2X(20m2/Hz )X(0.1 Hz)=1m2, tương ứng với độ lệch tiêu chuẩn là 1m. Giá trị này
tương đối phù hợp với ghi chép sóng.
Chú ý rằng phổ variance hay năng lượng không cho biết gì về pha của các thành
phần phổ. Vì vậy, không thể dùng phổ này để tạo ra bản ghi chép mà ta đã dùng nó để
xác định phổ. Ngược lại, bằng cách dùng các tập hợp pha khác nhau, ta có thể tạo ra
các thể hiện khác nhau mà tất cả chúng đều có phổ variance (hay năng lượng) giống
hệt nhau. Điều này cho ta manh mối để xây dựng các mô hình xác suất sóng mà ta sẽ
mô tả dưới đây.
6.2.2 Chiều rộng của phổ và dạng phổ
a) Chiều rộng phổ
Nói chung, dạng của phổ tần số sóng phụ thuộc vào các điều kiện tạo sóng
bên ngoài (tốc độ gió, đà gió, thời gian tác động của gió, độ sâu nước, sự tồn tại của
sóng lừng, giai đoạn của bão) cũng như các cơ chế nội tại (tương tác phi tuyến giữa
các sóng thành phần, tiêu tán năng lượng do sóng vỡ hay ma sát đáy). Tuy nhiên, dạng
của phổ không phải là tuỳ ý và một số đặc tính cơ bản của phân bố năng lượng được
áp dụng cho tất cả các phổ.
Bởi vì sẽ là rất thuận lợi nếu như ta xử lý các phổ tần số bằng cách dùng tần số
góc ω ( = 2π / T = 2πf , rad/s) thay cho tần số f (Hz). Trong phần này, tần số góc cũng
được gọi vắn tắt là tần số. Khi dùng ω , chúng ta không nên nhầm lẫn với tần số f.
Năng lượng của phổ sóng đạt giá trị cực đại tại ω = ω p , và giảm dần với cả
các tần số lớn hơn và nhỏ hơn. Thông thường, tốc độ giảm tại khoảng tần số thấp là
nhanh hơn tại khoảng tần số cao. Tần số ω p mà tại đó năng lượng của phổ sóng đạt
giá trị cực đại được gọi là tần số đỉnh. Tần số thấp nhất của sóng trọng lực do gió gây
ra được ước tính là xấp xỉ 0.03 Hz (0.2 rad/s). Năng lượng tại các tần số thấp hơn giá
trị này sóng đập, seiches hay thuỷ triều.
Tần số cao nhất của sóng trọng lực do gió gây ra tương ứng với vận tốc pha nhỏ
nhất là 23 cm/s tại bước sóng nhỏ nhất là 1.7 cm (trong nước sạch ở 20oC). Như vậy,
tần số cao nhất là 13.6 Hz (85 rad/s). Lực cản do sức căng mặt ngoài không cho phép
tạo ra sóng có các tần số cao hơn. Các tần số giới hạn này được cho bởi các xấp xỉ lý
thuyết. Trong thực tế chúng ta chỉ sử dụng một dải tần số cho sóng trọng lực gây bởi
gió hẹp hơn nhiều.
Hơn nữa, phổ thường là có quy luật, thí dụ như có vùng quy luật hàm mũ mà
82
S (ω ) ~ ω − n với một số mũ n nào đó. Một thí dụ hay của tính quy luật đó được cho bởi
khoảng bão hoà (hay khoảng cân bằng) trong phổ sóng, khi mà phổ phụ thuộc vào tần
số theo quy luật ω −5 (hay ω −4 ). Khoảng bão hòa này biểu thị sự cân bằng giữa năng
lượng mất mát do sóng vỡ và năng lượng sóng nhận được từ gió.
Một loạt các hàm mũ đã được đề nghị để có thể bao hàm phần dễ thay đổi
nhất của phổ. Các phổ khác nhau này thường là kết quả phân tích các chuỗi thời gian
thu được từ các thí nghiệm với các điều kiện tạo sóng khác nhau.
Phổ cho ta một mô tả hoàn chỉnh về sóng đại dương chỉ khi mà nó được coi là
chồng chất tuyến tính của rất nhiều thành phần hình sin cơ bản. Tuy nhiên, đặc biệt là
trong nước nông, sóng đại dương luôn cho ta thấy một đỉnh nhọn hơn và một bụng
nông hơn, gây ra do các thành phần điều hoà được tạo thành và sự tương tác của
chúng. Sự hiện diện của các thành phần điều hoà có thể thấy trong phổ sóng đại
dương như là các đỉnh thêm vào trong khoảng tần số cao. Thông tin này không đủ để
cho thấy các phối hợp của tần số tương tác tạo ra các đỉnh đó. Để tạo ra một “bản đồ”
của các tần số tương tác, cần phải áp dụng phép phân tích phổ bậc cao hơn.
Do tính phức tạp của việc truyền năng lượng từ khí quyển vào đại dương, sóng
bề mặt là đa hướng. Chỉ có một phần năng lượng sóng là lan truyền theo hướng gió.
Bởi vì có sự giới hạn của các phương pháp quan trắc, kiến thức về phân bố hướng là
khá nghèo nàn so với kiến thức về phổ tần số. Trong phần này ta sẽ xem lại các diễn
giải hiện tại về phổ hướng của sóng đại dương, gọi là mô hình mũ cosine, mô hình
Gauss bọc xung quanh, mô hình von Mises, mô hình dạng hyperbolic, và mô hình trải
hai đỉnh .
Thời gian
83
Tần số
Hình 6.7 Hàm tự tương quan K (τ ) và hàm mật độ phổ S (ω ) .
Hình 6.7 chỉ ra một hàm phổ tần số sóng điển hình và một hàm tự tương quan
tương ứng. Hàm tự tương quan đã được chuẩn hoá K (τ ) / σ ζ2 bắt đầu bằng 1 tại τ = 0.
Với tất cả các quá trình, K (τ ) → 0 khi mà τ → ∞ , và thời gian tắt đặc trưng cho tính
chất này được gọi là quy mô tương quan. Thí dụ như một quá trình Markov có một
hàm tự tương quan dạng:
⎛ τ ⎞
K (τ ) = K 0 exp⎜ − ⎟
⎜ τ ⎟
⎝ 0⎠
(6.37)
trong đó τ 0 được gọi là quy mô tương quan. Như vậy,
τ = τ 0 khi
K (τ 0 ) = e −1 ≈ 0.368 .
Dùng định nghĩa của quy mô tương quan, ta có thể nhận ra rằng trong trường
hợp của chúng ta τ 0 ≈ 7s. Trong trườnghợp này, hàm tự tương quan K (τ ) của một tín
hiệu cosin có pha ngẫu nhiên được cho bởi:
⎛ 2πτ
K (τ )
= cos(ω 0τ ) = cos⎜
⎜ T
K0
⎝ 0
⎞
⎟
⎟
⎠
(6.38)
trong đó T0 là chu kỳ của tín hiệu. Hàm K (τ ) biến mất với τ 1 = T0 / 4 . Giả thiết rằng
phần lớn năng lượng sóng được tập trung xung quanh tần số đỉnh ω p = 2π / T0 thì sẽ
84
là rất tự nhiên nếu ta liên kết điểm cắt đường không đầu tiên của hàm K (τ ) tại τ = τ 1
với chu kỳ thống trị của quá trình. Như vậy, tần số đỉnh ω p = 2π / 4τ 1 .
Trong hình 6.7, τ 1 ≈ 1.7 s, tương ứng với chu kỳ đỉnh ω p = 2π / (4 × 1.7 ) = 0.92
rad/s. Nhìn nhanh hình 6.7 ta có thể thấy rằng phổ trong hình có một đỉnh tại ω p =
0.85 rad/s, gần với giá trị xấp xỉ là 0.92 rad/s.
Hàm S (ω ) biểu thị một phân bố của năng lượng sóng trong miền tần số. Vì vậy,
tương tự với S ( f ) , moment tần số mr được định nghĩa là:
∞
mr = ∫ ω r S (ω )dω
(6.39)
0
Một số moment đầu tiên là đặc biệt quan trọng đối với việc mô tả phổ của sóng
đại dương. Moment đầu tiên xác định tần số sóng trung bình ω và chu kỳ trung bình
T , tức là:
m
m
2π
T =
ω= 1
and
= 2π 0
(6.40)
m0
m1
ω
~
Cũng như các moment mr , các moment phổ trung tâm mr cũng được dùng tới.
Chúng được định nghĩa là:
∞
r
~
mr = ∫ (ω − ω ) S (ω )dω
(6.41)
0
Vì vậy:
~
m0 = m0 ,
~
m1 = m1 − ω m0 = 0 ,
2
m
~
m2 = m2 − 1
m0
(6.42)
~
Momen trung tâm m2 là một thước đo mức độ tập trung của năng lượng phổ
sóng xung quanh tần số ω .
~
Khi mà chúng ta chuẩn hoá m2 trong phương trình (6.42) bằng tích (ω 2 m0 ) , ta
có được một thông số không thứ nguyên ν 2 như sau:
Sự dịch chuyển bề mặt
ν2 =
~
mm
m2
= 0 2 2 −1
2
m1
ω m0
85
(6.43)
Sự dịch chuyển bề mặt
Hình 6.8: Biến trình thời gian của dao động mực nước: a) phổ hẹp và b) phổ
rộng.
Thông số ν 2 là một đại lượng bậc thấp và thuận tiện để đo chiều rộng phổ.
Phương trình (6.43) chỉ ra một cách rõ ràng rằng khi mà tất cả năng lượng sóng tập
trung vào một tần số ω = ω , ta có ν 2 → 0 . Khi mà năng lượng sóng phân bố rộng rãi
quanh các tần số, ν 2 tăng lên. Trong các cơn bão điển hình, thông số chiều rộng phổ
ν xấp xỉ bằng 0.3.
Các profile sóng điển hình tương ứng với các phổ rộng và phổ hẹp được chỉ ra
trong hình 6.8. Ta có thể thấy rằng các sóng của một phổ hẹp gần như có tần số giống
nhau nhưng biên độ biến đổi. Các đường bao trên và dưới trùng lặp một cách chính
xác với đỉnh và bụng, và tạo ra một cặp các đường cong đối xứng đối với một giá trị
trung bình. Trong trường hợp như vậy, dịch chuyển dương và âm của mặt sóng là
bằng nhau, và bằng với biên độ sóng. Đối với phổ rộng, hiện diện các sóng có nhiều
tần số và chúng cưỡi lên nhau tạo ra những cực đại địa phương thấp hơn mực nước
biển trung bình.
b) Dạng phổ
Sự phát triển của sóng dưới tác động của gió không phải là vô hạn. Năng
lượng mà gió truyền cho sóng được cân bằng bởi tương tác của các sóng, truyền năng
lượng từ một dải cho trước tới các dải khác, và bởi tiêu tán năng lượng. Tại nước sâu,
quá trình tiêu tán năng lượng thường được xảy ra dưới dạng sóng bạc đầu với quy mô
nhỏ hơn bước sóng. Sóng bạc đầu xảy ra khi mà hai đỉnh sóng chồng lên nhau hay
một sóng ngắn cưỡi lên một sóng dài.
Một dạng giới hạn sóng phát triển khác liên quan với việc tạo thành những
sóng mao dẫn ngay trước đỉnh nhọn của các sóng chính. Các sóng mao dẫn này lấy
năng lượng của các sóng chính nhờ có độ cong của bề mặt cao (Phillips, 1977).
Chúng ta cũng cần chú ý rằng dòng chảy gió cũng làm cho sóng vỡ tại một biên độ
86
nhỏ hơn nhiều. Sóng vỡ tại nước nông tạo ra một giới hạn trên cho việc phát triển của
sóng bằng cách lấy năng lượng sóng tại một điều kiện tới hạn.
Việc xảy ra của bất cứ một cơ chế nào như thế là một chỉ số của trạng thái bão
hoà của các thành phần sóng, trong đó đạt được cân bằng giữa năng lượng do gió
cung cấp và năng lượng mất mát do tiêu tán. Như vậy, khoảng bão hoà có thể được mô
tả một cách rõ ràng nhờ các thông số vật lý địa phương cho biết hình thái sóng tới hạn,
thí dụ như gia tốc trọng trường, (g), vận tốc ma sát gió trên bề mặt sóng ( u* ), và tần số
địa phương ( ω ). Phillips (1958), dùng các lý luận thứ nguyên đã tìm ra rằng:
⎛ ωu ⎞
S (ω ) = f ⎜ * ⎟ g 2ω −5
(6.44)
⎟
⎜
⎝ g ⎠
Khi mà dòng chảy mặt là không quan trọng, tức là khi mà ωu* / g << 2 , phương
trình 6.44 cho ta
S (ω ) = αg 2ω −5 ,
⎛
2g ⎞
⎜ ω p << ω << 2 ⎟
⎜
u* ⎟
⎝
⎠
(6.45)
trong đó α là một hằng số (α = 1.23 × 10 −2 ).
6.2.3 Các phổ tần số điển hình
Các phổ mà ta thảo luận cho tới nay chỉ giới hạn trong điều kiện bão hoà, khi mà
ω > ω p . Để có thể bao hàm phần quan trọng nhất của phổ, một loạt các hàm đã được
đề nghị. Một dạng chung của các hàm mật độ phổ là:
S (ω ) = Aω − p exp(− Bω − q )
(6.46)
trong đó A, B, p and q là các thông số tự do. Vậy, các moment phổ định nghĩa bởi
phương trình (6.41) trở thành:
trong đó Γ(
) là hàm gamma.
⎛ 1 ⎞ ⎛ p − r −1⎞
⎟
mr = AB (r − p+1) / q ⎜ ⎟Γ⎜
⎟
⎜q⎟ ⎜
q
⎠
⎝ ⎠ ⎝
(6.47)
Phổ Pierson- Moskowitz
Có thể là phổ phổ biến nhất trong số các phổ được đề nghị là phổ Pierson và
Moskowitz (1964). Các ông dùng các số liệu quan trắc hiện trường và các phát kiến lý
thuyết của Phillips (1958) và Kitaigorodskii (1962) đã chỉ ra rằng:
⎡ ⎛ g ⎞4 ⎤
S (ω ) = αg ω exp ⎢− B⎜
⎟ ⎥
⎢ ⎝ ωU ⎠ ⎥
⎦
⎣
2
−5
(6.48)
với α = 8.1 × 10 −3 , B = 0.74 và U là vận tốc gió tại độ cao 19.5 m trên bề mặt biển.
Dạng của phổ sóng được điều khiển bởi một tham số duy nhất - vận tốc gió U. Phổ
trong phương trình (6.48) được đề nghị cho biển đã phát triển hoàn toàn, khi mà vận
87
tốc pha bằng vận tốc gió. Phổ thực nghiệm đề nghị bởi Pierson và Moskowitz cho ta:
Uω p
Uω p Uf p
= const = 0.879 and
=
= 0.13
(6.49)
g
2πg
g
với f p = ω p / 2π . Sau khi thế vào phương trình (6.48) ta có:
⎡ 5 ⎛ ω ⎞ −4 ⎤
⎟ ⎥
S (ω ) = αg ω exp ⎢− ⎜
⎢ 4 ⎜ωp ⎟ ⎥
⎠ ⎦
⎝
⎣
−5
2
(6.50)
Có một số vấn đề toán học khi ta tính các moment thứ tư của phổ bằng cách
dùng phương trình (6.50). Về mặt vật lý, moment này biểu thị gia tốc bình phương
trung bình đo được tại một điểm Eulerian là không bị giới hạn. Để khắc phục nhược
điểm này, ta thường cắt bỏ một phần tần số, tức là
ωc
m4 = ∫ S (ω )dω
(6.51)
0
trong đó ω c = nω p và n được lấy là n>3.
Chúng ta cần chú ý rằng phổ Pierson-Moskowitz không nhất thiết tương ứng
với sóng phát triển hoàn toàn. Trong thực tế, Hasselmann và những người khác
(1976) sau khi đã kiểm tra rất kỹ phổ thực nghiệm của Pierson-Moskowitz, đã tìm ra
rằng chỉ có một phần của các phổ này là tương ứng với sóng phát triển hoàn toàn.
Phổ Bretschneider-Mitsuyasu
Mitsuyasu (1970) dùng các số liệu quan trắc để hiệu chỉnh các hệ số trong các
công thức do Bretschneider (1968) đề nghị và thấy rằng phổ của sóng gió phát triển
hoàn toàn được cho bởi:
[
4
S (ω ) = 2517 H12/ 3T1−3 ω −5 exp − 1605(T1/ 3ω )
/
−4
]
(6.52)
Hình 6.9 cho ta sự so sánh giữa phổ Bretschneider-Mitsuyasu và phổ quan trắc
với trường hợp H1/ 3 = 3.3 m, T1/ 3 = 8.0 s, H = 2.1 m, T = 6.6 s. Hình vẽ cho thấy rằng
năng lượng sóng trải trong khoảng f = 0.05 ~ 0.4 Hz, hay là tương ứng với T = 2.5 ~
20 s, cho dù rằng chu kỳ của sóng có nghĩa là 8 s. Hình vẽ còn cho ta thấy rằng năng
lượng sóng tập trung vào quanh tần số f p ≅ 0.11 Hz, mà nó thường là nhỏ hơn tần số
f = 0.125 Hz tương ứng với chu kỳ sóng có nghĩa. Đường đứt gẫy là kết quả của việc
đưa các giá trị của độ cao và chu kỳ sóng có nghĩa xác định từ ghi chép vào phương
trình (6.52). Tuy rằng một số khác biệt có thể thấy được giữa phổ tính toán và phổ
quan trắc (một phần vì hiệu ứng nước nông trong chuỗi số liệu sóng đã được hiệu
88
chỉnh với độ sâu đặt máy là 11m), phổ tiêu chuẩn mô tả phổ thực khá tốt.
sóng có nghĩa
sóng chính
Mật độ phổ
Quan trắc
Phổ chuẩn
Tần số
Hình 6.9 So sánh giữa phổ Bretschneider-Mitsuyasu và phổ quan trắc
Phổ JONSWAP và những biến thể của nó
Phổ JONSWAP phát triển phổ Pierson-Moskowitz để có thể bao hàm sóng có
đà giới hạn. Phổ này được phát triển nhờ sử dụng các số liệu từ một chương trình quan
trắc rất quy mô (Joint North Sea Wave Project) tiến hành trong các năm 1968 và 1969
tại biển Bắc. Phổ JONSWAP, sau khi được công bố vào năm 1973, gần như được
công nhận ngay và trở thành rất nổi tiếng trên trường quốc tế. Mô hình phổ kết quả có
dạng (Hasselmann và những người khác, 1973):
⎡ 5 ⎛ ω ⎞ −4 ⎤
⎟ ⎥γ δ ,
S (ω ) = αg ω exp ⎢− ⎜
4 ⎜ωp ⎟ ⎥
⎢
⎠ ⎦
⎝
⎣
2
−5
(6.53)
trong đó:
⎡
δ = exp ⎢−
⎢
⎣
(ω − ω )⎤
p
2 2 ⎥
2σ 0 ω p ⎥
⎦
(6.54)
Phổ (6.53) chứa 5 thông số, tức là α , γ , ω p và σ 0 = σ 0' với ω ≤ ω p , và
"
σ 0 = σ 0' với ω > ω p cần phải biết trước. Thông số γ δ là một thông số tăng cường đỉnh
được đưa vào trong phổ Pierson-Moskowitz để diễn tả một phổ có đỉnh nhọn hơn, đặc
trưng cho sóng đang phát triển. Thông số γ mô tả mức độ của đỉnh và thông số σ 0
mô tả chiều rộng của miền đỉnh.
89