Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 127 trang )
7
nên giảm được chi phí hoạt động. Lợi nhuận còn được tạo ra bởi những lời quảng cáo
truyền miệng tích cực của các khách hàng thỏa mãn. Những khách hàng này thường
giới thiệu cho người thân trong gia đình, bạn bè, và từ đó tăng cường quyết định của
họ (Zeithmal et al., 1996). Các nghiên cứu đã chứng minh được rằng lòng trung khách
hàng sẽ dẫn tới lợi nhuận cao và công ty phải nên xúc tiến các chương trình liên quan
đến việc duy trì khách hàng hiện tại (Reichehld, 1996).
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ NHÂN VIÊN - KHÁCH HÀNG
1.2.1. Khái niệm:
Sức mạnh mối quan hệ được định nghĩa là mức độ hoặc cường độ của mối quan
hệ được chi phối bởi số lượng tin tưởng/ giao dịch của khách hàng đối với giao dịch
viên và mức độ cam kết của giao dịch viên đối với họ (Bove và Johnson, 1999).
Trường hợp khách hàng có nhiều mối quan hệ mạnh mẽ với các nhân viên khác nhau;
họ thực sự trung thành với công ty thì kết quả trực tiếp thu được từ phía nhân viên
được xem đồng nghĩa với công ty. Và để đạt được các giá trị trên, doanh nghiệp
không chỉ tạo ra những sản phẩm tốt, phục vụ chuyên nghiệp mà còn phải có mối quan
hệ với khách hàng thật gần gũi, gắn bó trong công việc, tình cảm, hình ảnh, nhận
thức,...
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau về mối quan hệ nhân viên – khách hàng (OC),
các nghiên cứu khi được thực hiện ở những địa điểm, thời gian, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu khác nhau đã cho những kết quả khác nhau (Matzler và ctv, 1996,
Johnston, 1995; Vavra, 1997). Tuy nhiên, theo hiểu biết của bản thân, các nghiên cứu
về sự mối quan hệ gắn kết của khách hàng đối với Ngân hàng không chỉ dừng lại ở
mức độ đo lường sự thỏa mãn của khách hàng với Ngân hàng, mà còn bao hàm nhiều
khía cạnh khác về sự đánh giá và cảm nhận của khách hàng đối với ngân hàng và các
đối thủ cạnh tranh … Mặc dù các nghiên cứu trên đây đã vẽ ra được bức tranh khá
sinh động về mối quan hệ gắn kết của khách hàng đối với ngân hàng thông quan nhân
viên mà họ đang giao dịch, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn kết này,
nhưng thực tế tình hình ngành ngân hàng ngày càng biến động, cạnh tranh quyết liệt
vẫn còn có nhiều yếu tố khác nữa làm cho một khách hàng không thực sự gắn bó đối
với tổ chức mình đang phục vụ, chẳng hạn cảm nhận được sự phát triển bền vững của
ngân hàng, chính sách chăm sóc khách hàng, .... đề tài này hướng đến một khám phá
8
ảnh hưởng của các nhân tố này ra sao bên cạnh các nhân tố khác đã được các tác giả
nghiên cứu đến mối quan hệ gắn kết nhân viên – khách hàng tại một chi nhánh ngân
hàng trong bối cảnh một nước đang phát triển. Xa hơn nữa, đề tài tiến đến kiểm định
ảnh hưởng của các nhân tố này đến 3 khía cạnh chính của mối quan hệ gắn kết OC:
“Cường dộ quan hệ giữa khách hàng với nhân viên”, “Số lượng quan hệ của khách
hàng với nhân viên và “Độ dài mối quan hệ giữa khách hàng với nhân viên”, cũng như
ảnh hưởng của 3 khía cạnh của mối quan hệ gắn kết này đến sự trung thành của khách
hàng đối với Ngân hàng.
1.2.2. Ý nghĩa:
Giá trị về mặt kinh tế của mỗi khách hàng không chỉ là đem lại cho doanh
nghiệp nhiều lợi nhuận hơn mà họ còn có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí do
hiệu quả của việc cắt giảm chi phí quảng cáo và chi phí giao dịch. Cùng với những giá
trị về mặt kinh tế, những khách hàng trung thành cũng chính là phương tiện truyền
thông tốt nhất của doanh nghiệp, những nhận xét tốt của khách hàng với mọi người sẽ
giúp nâng cao uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp. Sức mạnh mối quan hệ của khách
hàng và nhân viên viên dịch vụ đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển lòng
trung thành của khách hàng đối với công ty.
1.2.3. Đo lường mối quan hệ:
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng mối quan hệ khách hàng với nhân viên giao
dịch có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển lòng trung thành của khách hàng đặc biệt là
trong các tình huống của dịch vụ liên tục, nơi có mức độ tương tác theo yêu cầu của
những người tham gia và “độ sâu, độ bền” của mối quan hệ được đo lường từ cường
độ mối quan hệ, số lượng mối quan hệ, độ dài của mối quan hệ (Bove và Johnson,
2000).
1.3 MÔ HÌNH QUAN HỆ GIỮA MỐI QUAN HỆ VÀ LÒNG TRUNG THÀNH
Mô hình sau đây đã mô tả được sức mạnh của mối quan hệ như là một phương
tiện quản lý với chi phí thấp mà tạo hiệu quả cao.
9
Perceived benefits derived
From service worker
(Lợi ích thu được từ nhân viên
P2b
dịch vụ)
Relationship age
( Độ dài của mối quan hệ)
P3
Service contact intensity
(Cường độ tiếp xúc)
P4 Customer's perceived risk
(Nhận thức rủi ro khách hàng)
P1
P2a
Customer's
relationship One
strength
service
With:
Personal loyalty
to
service worker
(Lòng trung
thành
)
worker
(Sức mạnh
quan hệ
khách hàng Multipl
với
e
nhân viên) service
P9
Customer's interpersonal
orientation
P8
workers
P7
True loyalty to
service firm
(Lòng trung
thành
Thực sự với DN)
P5
(Định hướng khách hàng cá nhân)
Service worker's customer
orientation
(Định hướng khách hàng
của nhân viên)
P6
Hình 1.1. Mô hình quan hệ giữa mối quan hệ và lòng trung thành
(Bove và Johnson, 2000)
- Lợi ích thu được từ dịch vụ (perceived benefits derived from service worker):
Sự phát triển của một mối quan hệ phụ thuộc nhiều vào số lượng và bản chất
của lợi ích (Alman và Taylor, 1972). Nhân viên phục vụ chịu trách nhiệm về việc cung
cấp các lợi ích chính cho khách hàng, các dịch vụ cốt lõi, một khách hàng có thể được
hưởng lợi ích từ nhân viên dịch vụ ngoài việc thực hiện dịch vụ cốt lõi (Crosby và
Stephens, 1987). Trên thực tế, đó là giá trị lợi ích quan hệ với một số khách hàng
(Gwinner et al, 1998) cho thấy họ có thể ở trong một mối quan hệ với một nhà cung
cấp dịch vụ ngay cả khi họ cảm nhận được dịch vụ cốt lõi là kém hơn so với các lựa
chọn thay thế. Các nghiên cứu của Beatty et al (1996) và Beatty (1999) xác định chức
năng và lợi ích khách hàng bắt nguồn từ mối quan hệ lâu dài với nhân viên dịch vụ.
10
Lợi ích bao gồm sự tin tưởng, giảm lo lắng và rủi ro, sự tin cậy đối với nhà cung cấp
dịch vụ, biết họ mong đợi những gì, cảm nhận được khách hàng, mối quan hệ với
khách hàng là quen thuộc và tình bạn. Tầm quan trọng nhất của lợi ích là tiết kiệm
được chi phí, tiết kiệm được thời gian, cung cấp các dịch vụ bổ sung,....
- Độ dài của mối quan hệ (Relationship age):
Để có mối quan hệ mạnh mẽ ta phải xây dựng từ từ và tăng dần theo thời gian
(Brass et al, 1998; Dwyer et al, 1987); với thời gian, mối quan hệ di chuyển một cách
liên tục từ nâng cao nhận thức cho các cam kết và sau này đại diện cho giai đoạn cao
nhất của quan hệ liên kết. Nói cách khác, những gì có thể bắt đầu như một giao dịch
thương mại, không có nội dung tình cảm, nhưng dần dần có thể phát triển theo thời
gian tạo nên một mối quan hệ mạnh mẽ: chia sẻ các cam kết, quan tâm lẫn nhau (Puli
và Barnes, p.230).
Độ dài của mối quan hệ có tác động tích cực trên sức mạnh của mối quan hệ
bằng cách tăng cả hai mức độ tin tưởng và cam kết trong mối quan hệ. Mức độ tin
tưởng: Qua 03 giai đọan phát triển (Young và wilkinson, 1989): Lần đầu tiên – mức độ
tin tưởng giữa hai bên ở mức tối thiểu, lần kế tiếp – hai bên có cơ hội đánh giá giao
dịch và từ đó phát triển sự tin tưởng, lần thứ ba – tin tưởng được thành lập, nơi mà
hiệu năng nhận thức thức phù hợp với hiệu suất hứa.
Mối quan hệ giữa khách hàng và nhân viên dịch vụ lâu dài sẽ cung cấp cho
khách hàng những lợi ích như: tăng cường các mối quan hệ (P2a), sự hiểu biết lẫn
nhau cao hơn, sự hài lòng dịch vụ lớn hơn. Mối quan hệ càng lâu sẽ mang đến lợi ích
thu được càng cao (P2b).
- Cường độ tiếp xúc (Service contact intensity):
Từ niềm tin và hiểu biết lẫn nhau giữa khách hàng và nhân viên giao dịch, sự
lặp đi lặp lại với một nhân viên dịch vụ dẫn đến sự hình thành các thói quen và các thể
chế của hành vi mà sẽ nâng cao mức độ tin cậy của khách hàng. Tần suất tiếp xúc cũng
giúp tăng cường mức độ quan hệ này (Crosby et al, 1990), nó là một yếu tố quyết định
duy trì mối quan hệ.
Cường độ tiếp xúc cũng bao gồm một số biện pháp của sự gần gũi vật lý,
khoảng cách không gian giữa một khách hàng và một nhân viên dịch vụ để tăng cường
cảm giác quen thuộc (Hinde, 1979; Mehrabian, 1981 et al, 1995) tạo điều kiện cho
nhận thức của nhân viên giao dịch một sự tin cậy và ấm áp (Crosby, 1990). Vậy, người
ta có mối quan hệ mạnh mẽ hơn để phát triển theo điều kiện thường xuyên, vật lý (mặt
11
đối mặt), cuộc gặp gỡ dịch vụ mở rộng (điện thoại, mail,..) để kích thích giao lưu giữa
các cá nhân và hiển thị tích cực và nâng cao cảm xúc [Goodwin, 1996; Price et al,
1995; Sutton và Rafaeli, 1988].
- Nhận thức rủi ro hách hàng (Customer's perceived risk):
Khách hàng có thể lựa chọn một dịch vụ mà họ chẳng có kinh nghiệm và niềm
tin gì về dịch đó thậm chí sau khi mua và tiêu thụ. (Darby và Karni, 1973). Điều này là
bởi họ thiếu kiến thức thẩm định cho dù dịch vụ sẽ đáp ứng hay đã đáp ứng nhu cầu
cho họ (Bowen và Jones, 1986). Nhận thức nguy cơ của một khách hàng trong việc
mua một dịch vụ là một chức năng không chắc chắn và hậu quả liên quan là các kết
quả thay thế (Cunningham, 1967; Webster, 1972). Nhận thức rủi ro liên quan đến chi
phí và đảo ngược (Czepiel et al., 1985); và tăng lên khi xác suất của kết quả tiêu cực
tăng hoặc ngược lại (Nooteboom et al, 1997;. Swan và Nolan, 1985). Vậy, mong muốn
tạo nên một mối quan hệ khách hàng với nhân viên dịch vụ sẽ phụ thuộc vào bản chất
của dịch vụ và mức độ rủi ro mà có thể bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của khách hàng
(George et al, 1985).
- Định hướng khách hàng (Customer's interpersonal orientation):
Định hướng cá nhân của một khách hàng sẽ được điều chỉnh mức độ
trong mối quan hệ của mình với một dịch vụ/người bán hàng. Trong khi một số khách
hàng có thể mong muốn có tình bạn kiểu quan hệ với nhân viên dịch vụ của một công
ty (Price và Arnould, 1999), nhưng không phải khách hàng nào cũng muốn thế.
Gabbott (1996) - ông cho rằng nhân cách của một khách hàng xác định khi
anh/cô ấy mong muốn cho tương tác cá nhân trong cuộc gặp gỡ dịch vụ. Bằng cách sử
dụng biện pháp tính định hướng cá nhân (Cohen, 1967), Gabbott cho thấy “phù hợp”
chủ yếu các khách hàng có ý nghĩ ủng hộ tương tác cá nhân với nhân viên bán hàng,
cho dù nó đã được bắt đầu, nhưng họ không thích nó khi khởi xướng bởi nhân viên
bán hàng. Ngược lại, có một nhóm khách hàng lại không tin tương tác cá nhân, không
thích nói cho người khác về kinh doanh của họ, không thích nói chuyện với nhân viên
bán hàng và cho thấy một sở thích tự phục vụ (Gabbot).
Và do đó sức mạnh của mối quan hệ, bằng cách này, mong muốn giữa các cá
nhân liên kết, (trong đó sẽ được phản ánh qua cách khách hàng định hướng cá nhân),
sẽ có tác động tích cực sức mạnh của mối quan hệ.
12
- Định hướng khách hàng của nhân viên (Service worker's customer orientation):
Mặc dù tính cách của một khách hàng (định hướng cá nhân) được xem là một
tiền đề quan trọng đối với sức mạnh của mối quan hệ. Nhưng vai trò của một nhân
viên dịch vụ sẽ đóng một vai trò lớn hơn trong việc xác định sức mạnh của mối quan
hệ. Dịch vụ theo đinh hướng khách hàng nhân viên xem các mối quan hệ khách hàng
theo một quan điểm dài hạn và tập trung vào những gì tốt nhất cho khách hàng chứ
không phải “bán ngay lập tức” chỉ thực hiện lợi ích chính ngắn hạn (Dorsch et al,
1998;. Saxe và Weitz, 1982; Siguaw et al, 1994). Các nhân viên dịch vụ này có kiến
thức về sản phẩm sâu, hiểu rõ nhu cầu của khách hàng, có sự đồng cảm với khách
hàng, thích ứng được cá tính và phong cách của khách hàng.
Định hướng khách hàng của nhân viên là một trong những biện pháp khách quan
trong việc loại bỏ các sai lệch trong việc tự đánh giá xếp hạng (Michaels và Day, 1985;
Siguaw và et al, 1994;. Williams và Attaway, 1996). Nó sẽ là một yếu tố dự báo tốt
hơn về sức mạnh của mối quan hệ.
- Lòng trung thành thực sự với doanh nghiệp (True loyalty to service firm):
Các mối quan hệ của khách hàng với nhân viên dịch vụ mạnh mẽ sẽ tạo nên sự
trung thành của khách hàng đối với doanh nghiệp lớn hơn, mạnh hơn. Ví dụ, Beatty et
al [1996] tìm thấy rằng những cảm xúc tích cực của khách hàng đối với nhân viên dịch
vụ sẽ có lợi ích cho tổ chức. Mức độ tin tưởng của khách hàng sẽ chuyển thành thái độ
dương (+) đối với công ty. Vì vậy, khi một khách hàng có quan hệ mạnh mẽ với nhiều
nhân viên dịch vụ thì sẽ tạo nên một con đường”trực tiếp” giữa sức mạnh và mối quan
hệ khách hàng thực sự trung thành với doanh nghiệp.
- Lòng trung thành của khách hàng với nhân viên (Personal loyalty to service
worker):
Thái độ của khách hàng đối với nhân viên dịch vụ này sẽ tốt hơn so với nhân
viên dịch vụ khác tại công ty, và mức độ của khách hàng sẽ lặp lại giao dịch với nhân
viên này rất cao vì khách hàng cảm nhận hành vi của nhân viên này như là duy nhất.
- Sức mạnh quan hệ khách hàng với nhân viên (Customer's relationship strength
with..)
Quan hệ khách hàng với nhân viên là một cách tiếp cận khách hàng, xây dựng
một khách hàng trung thành cho doanh nghiệp với chi phí thấp. Nhà quản lý có thể
khuyến khích phát triển mối quan hệ bằng cách tập trung vào xác định tiền đề của sức
mạnh mối quan hệ, nhằm phát triển lòng trung thành của khách hàng. Điều đó cho thấy
13
rằng mối quan hệ của khách hàng với các nhân viên dịch vụ là điều quan trọng.
1.4 TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.4.1. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Nghiên cứu về chất lượng dịch vụ NH điện tử tác giả Nguyễn Thị Phương Trâm
sử dụng 2 mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ phổ biến nhất là mô hình SERVQUAL
(Parasuranam et al, 1988) và mô hình chất lượng kỹ thuật/chất lượng chức năng
(Gronroos,1983, 1990) để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ NH
điện tử, nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách
hàng, đồng thời tác giả tiến hành so sánh 2 mô hình này để tìm xem mô hình nào đánh
giá chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử Việt Nam tốt hơn. Kết quả cho thấy, mô hình
chất lượng kỹ thuật/chất lượng chức năng giải thích sự hài lòng của khách hàng về
chất lượng dịch vụ ngân hàngđiện tử tốt hơn mô hình SERVQUAL.
Cường độ mối
quan hệ
Hài lòng
Chính sách quan hệ
khách hàng
Trung
thành
Độ dài mối quan hệ
Số lượng mối
quan hệ
Lòng tin
Hình 1.2. Mô hình quan hệ giữa trung thành – mối quan hệ theo mô hình SERVQUAL
Mô hình SERVQUAL có hai yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng
đó là yếu tố đáp ứng/năng lực phục vụ và yếu tố phương tiện hữu hình. Còn trong mô
hình chất lượng kỹ thuật/chất lượng chức năng, cả hai yếu tố chất lượng kỹ thuật và
chất lượng kỹ năng đều tác động đến sự hài lòng của khách hàng. Trong đó yếu tố chất
lượng kỹ thuật tác động đến sự hài lòng nhiều hơn yếu tố chất lượng chức năng. Mô
hình và thang đo SERVQUAL không chỉ được sử dụng để nghiên cứu trong lĩnh vực
marketing mà còn được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác như dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, dịch vụ ngân hàng và dịch vụ giặt khô, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ tín dụng,
dịch vụ siêu thị v.v… ( xem Nguyễn Thị Phương Trâm, 2008).
14
Các dịch vụ hỗ trợ KH
Các CT thường xuyên
Lãi suất, phí
Trung
Chính sách quan hệ KH
Đáp ứng nhu cầu KH
thành
Quan hệ công chúng
Các CT chính sách
KH
Hình 1.3. Mô hình quan hệ giữa trung thành – chính sách quan hệ khách hàng
(Nguồn: Hoàng Xuân Bích Loan, 2010)
Với mong muốn nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại NH Đầu Tư và Phát
Triển – Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Hoàng Xuân Bích Loan đã tiến hành
nghiên cứu với 200 mẫu điều tra được lựa chọn ngẫu nhiên dựa trên số liệu của ngân
hàng. Phiếu khảo sát được gửi trực tiếp cho khách hàng tại quầy giao dịch và qua
đường bưu điện. Nghiên cứu sử dụng thang đo Liker 5 điểm, từ hoàn toàn đồng ý đến
hoàn toàn không đồng ý và đo lường thông qua 25 mục câu hỏi đo lường các nhân tố
mang lại sự hài lòng cho khách hang, gồm các thành phần như độ tin cậy, độ phản hồi,
kỹ năng, độ tiếp cận, thông tin, chất lượng sản phẩm dịch vụ và 3 câu hỏi đo lường
mức độ hài lòng của khách hàng khi giao dịch. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các thành
phần đề nghị đều có ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng. Trong đó, các khách
hàng giao dịch với ngân hàng càng lâu thì mức độ tín nhiệm và hài lòng càng cao.
Nhóm khách hàng giao dịch với nhiều ngân hàng thì mức độ hài lòng của họ sẽ giảm
sút, do họ có sự so sánh nhiều hơn so với nhóm giao dịch với ít ngân hàng hơn .
15
Như vậy, ở Việt Nam đề tài nghiên cứu về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa
nhân viên giao dịch ngân hàng với khách hàng thực sự chưa có, mục đích mối quan hệ
này nhằm giữ chân được khách hàng vì mối quan hệ này không chỉ là một công việc
phục vụ thông thường nữa mà nó phải hiển thị được sự hài lòng và lòng trung thành
của khách hàng đối với doanh nghiệp nhất là trong lúc cạnh tranh quyết liệt như ngày
nay. Và mối quan hệ này đang và sẽ được bàn luận khá nhiều trong các lĩnh vực dịch
vụ khác nhau như: internet, viễn thông, siêu thị, du lịch,… Thời gian gần đây, đề tài
này cũng được nhắc đến khá nhiều trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên chưa có một
nghiên cứu chính thức nào về vấn đề này tại Việt Nam.
1.4.2 Các nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ của khách hàng đối với
ngân hàng. Ở các quốc gia khác nhau những nhân tố có sự ảnh hưởng khác nhau. Và
mỗi nghiên cứu khác nhau lại có những nhân tố mới được khám phá.
Nghiên cứu của Bove và Johson năm 2000 đã đề nghị mô hình mô tả mối quan
hệ giữa khách hàng với nhân viên dịch vụ đối với một ngân hàng dưới sự tác động của
hình ảnh ngân hàng đó trên thị trường. Mẫu nghiên cứu là các khách hàng cá nhân
đang sử dụng dịch vụ ngân hàng ở Hà Lan, các khách hàng này được lựa chọn một
cách ngẫu nhiên với số lượng là 2.500 mẫu và được phỏng vấn trực tiếp qua điện
thoại. Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 4 điểm với các mức độ từ 1 là hoàn toàn
không đồng ý đến 4 là hoàn toàn đồng ý, bảng câu hỏi gồm 17 biến (items) được phát
triển dựa trên những nghiên cứu trước đó đáp ứng được đặc điểm nghiên cứu của đề
tài. Kết quả thu được chỉ ra rằng hình ảnh có liên quan gián tiếp đến lòng trung thành
thông qua chất lượng cảm nhận. Đổi lại, chất lượng dịch vụ liên quan đồng thời trực
tiếp và gián tiếp đến lòng trung thành thông qua sự hài lòng. Bên cạnh đó, các nhân tố
như độ tin cậy, vị trí trên thị trường cũng ảnh hưởng quan trọng đến lòng trung thành
của khách hàng.
Với quan điểm cho rằng dịch vụ ngân hàng tự động và các công nghệ khác cho
phép NH tăng lợi nhuận do giảm được chi phí về nhân sự, mạng lưới, tuy nhiên tác
động dài hạn của dịch vụ tự động và các công nghệ này lên lợi nhuận là phụ thuộc vào
thái độ và kết quả hành vi của khách hàng. Hoặc họ hài lòng đối với dịch vụ hoặc họ
tìm kiếm, thay thế nhà cung cấp dịch vụ khác. Vì thế nghiên cứu của Moutinho và
Smith giới thiệu và kiểm nghiệm một mô hình về các mối quan hệ giữa một trong
16
những yếu tố của chất lượng dịch vụ như là thuận tiện/tiếp cận (dễ dàng giao dịch), sự
hài lòng của khách hàng, sự trung thành của khách hàng và sự chuyển đổi hành vi.
Phục vụ khách hàng – chỉ vài từ ngắn gọn nhưng bao hàm thật nhiều điều. Trả lời
các câu hỏi, giải quyết các vấn đề, gỡ rối những bế tắc liên hoàn, khắc phục những thứ
đã ''đổ vỡ'' và tìm ra những thiệt hại, cuối cùng là trấn an những người đang nổi giận
và khiến những rụt rè yên tâm. Và luôn tiến hành công việc với một khả năng khiến
mọi người phải kinh ngạc, mang đến cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ phù hợp
(Parasuraman và ctv, 1996). Các nghiên cứu (Matzler và ctv, 1996, Johnston, 1995;
Vavra (1997) đã chỉ ra 11 thành phần có quan hệ với mối quan hệ, gần gũi giữa khách
hàng và nhân viên ngân hàng, cũng như lòng trung thành của khách hàng với tổ chức
(Bove và Johnson, 2000).
Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ nhân viên khách hàng bao gồm:
Sự tin cậy: Thể hiện sự tin tưởng vào chuyên môn, những thông tin mà Ngân
hàng cung cấp, tin tưởng và lời hứa của nhân viên, của Ngân hàng.
Sự tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ khác: Được thông tin đầy đủ, nhanh chóng, kịp
thời, chính xác, dễ cập nhật.
Áp dụng các chương trình thường xuyên: Các chương trình chăm sóc khách
hàng thường xuyên, thiết thực, hấp dẫn..
Yếu tố phí, giá: Phí, lãi suất cạnh tranh, phù hợp.
Đáp ứng nhu cầu khách hàng: Cảm thấy thỏa mãn, hài lòng khi những lời đề
nghị từ khách hàng được chấp nhận.
Yếu tố quan hệ công chúng: Cảm thấy sự gần gũi, yêu thương Ngân hàng
bằng những hành động, cử chỉ cao đẹp dành cho cộng đồng .
Sự chăm sóc khách hàng: Khách hàng cảm nhận được sự quan tâm, yêu
thương, gần gũi như các thành viên trong gia đình, khác với mối quan hệ giữa khách
hàng và doanh nghiệp.
Mối quan hệ gắn kết giữa nhân viên và khách hàng được thể hiện trên 3 mặt:
Cường độ quan hệ: Cường độ tiếp xúc giữa khách hàng với ngân hàng.
Số lượng mối quan hệ với nhân viên Ngân hàng: Mối quan hệ với nhân viên
ngân hàng càng nhiều càng thể hiện sự khắt khích, gần gũi nhau hơn.
17
Độ dài mối quan hệ: Mối quan hệ giữa khách hàng với nhân viên ngân hàng
càng lâu sự trung thành càng tăng cao, gắn bó lâu dài hơn.
Cuối cùng, mối quan hệ gắn kết nhân viên và khách hàng tạo nên sự trung thành
của khách hàng đối với tổ chức.
Mức độ trung thành: Khách hàng sẵn sàng quảng bá, giới thiệu tốt Ngân hàng
cho mọi người.
Khái niệm về mối quan hệ và sự gắn kết giữa khách hàng và nhân viên ngân
hàng vẫn là một trong các khái niệm đầy thách thức. Một trong những nỗ lực đầu tiên
để đưa ra một khung lý thuyết về sự gắn kết là của Becker (1960) dựa trên cơ sở mối
quan hệ giữa cá nhân với tổ chức. Luận điểm này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu sau
đó (Hrebiniak và Alonso, 1973; Ritzer và Trice, 1969, xem Zheng, Sharan & Wei,
2009).
Tuy nhiên, có thể có cách tốt hơn để đo lường mối quan hệ gắn kết là sử dụng các
biện pháp trực tiếp đánh giá nhận thức của khách hàng. Theo quan điểm này, xu hướng
trong nghiên cứu sự gắn kết đã phát triển đến một sự hiểu biết về gắn kết với tổ chức
phức tạp hơn bao gồm cả khía cạnh hành vi và khía cạnh thái độ. Các học giả này
(Hall et al.,1970; Sheldon, 1971; Porter et al., 1974; Mayer và Allen, 1996) đã dựa vào
các lý thuyết có sẵn để nghiên cứu về sự gắn kết thái độ. Hơn nữa, trong một nghiên
cứu, các tác giả trên cũng đã tìm thấy mối quan hệ nhân viên – khách hàng (OC) là có
liên quan đến dự định của khách hàng sẽ gắn kết với ngân hàng bao lâu. Các mối quan
hệ cao nhất thường được tìm thấy giữa cam kết và sự hài lòng trong phục vụ (Xem
Bove và Johnson, 2000).
Tóm lại, đề tài nghiên cứu tầm quan trọng của mối quan hệ giữa nhân viên giao
dịch ngân hàng với khách hàng là các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng và trung
thành của khách hàng đối với ngân hàng là đề tài không mới trên thế giới. Nhưng
trong giai đoạn các ngân hàng đang có sự thay đổi trong lúc khó khăn như hiện nay,
nền kinh tế suy yếu, thì một nghiên cứu trong lúc này là rất cần thiết, nhất là ở một
tỉnh nhỏ như Kiên Giang nhưng có đến hơn 30 đối thủ cạnh tranh.