Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.21 KB, 97 trang )
22
Nguyên tắc 2: trên cơ sở nguyên tắc 1, ban tổng giám đốc có trách nhiệm thực
hiện các định hướng mà HĐQT phê duyệt và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm
phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của
từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư.
Nguyên tắc 3: các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi
sản phẩm của mình. Đối với các sản phẩm mới, các ngân hàng cũng cần được định
lượng rủi ro, đưa ra được các chính sách phát triển sản phẩm và phòng ngừa rủi ro phù
hợp và phải được HĐQT phê duyệt trước khi đưa vào hoạt động.
Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh
Nguyên tắc 4: các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín
dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường mục
tiêu của ngân hàng, đồng thời phải hiểu rõ khách hàng vay vốn cũng như mục đích và
cơ cấu khoản tín dụng.
Nguyên tắc 5: ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại
khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro khác
nhau nhưng vẫn có thể theo dõi được trên sổ sách kế toán kinh doanh, nội bảng và
ngoại bảng.
Nguyên tắc 6: ngân hàng cần có quy trình rõ ràng trong việc phê duyệt các
khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn, tái cơ cấu, tái tài trợ cho các khoản tín
dụng hiện tại.
Nguyên tắc 7: việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công
bằng giữa các bên. Đặc biệt các khoản tín dụng cho các công ty và các cá nhân có liên
quan được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ phải được theo dõi cẩn thận và triển khai các
bước cần thiết để loại trừ rủi ro.
Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp:
Nguyên tắc 8: các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với
các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng. Việc quản lý tín dụng là một yếu tố quan trọng
nhằm duy trì sự an toàn và lành mạnh của ngân hàng. Khi đã cấp tín dụng, trách nhiệm
của bộ phận kinh doanh kết hợp với đội ngũ quản lý hỗ trợ tín dụng là phải đảm bảo
cho khoản tín dụng được duy trì.
Việc này gồm cập nhât hồ sơ tín dụng, thu thập thông tin tài chính từ phía
khách hàng tại thời điểm hiện hành, gửi đi các thông báo về gia hạn và soạn thảo hợp
23
đồng vay. Với phạm vi trách nhiệm của công tác quản lý tín dụng, cơ cấu tổ chức của
bộ phận này thay đổi tùy theo quy mô và mức độ phức tạp của từng ngân hàng.
- Tại các ngân hàng lớn, trách nhiệm đối với bộ phận quản lý tín dụng khác
nhau thường được giao cho các phòng ban khác nhau.
- Tại các ngân hàng nhỏ, một số cá nhân có thể giải quyết công việc của vài bộ
phận nghiệp vụ.
Nguyên tắc 9: ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín
dụng, bao gồm mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ.
Nguyên tắc 10: khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống xếp hạng tín dụng cần
nhất quán với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của hoạt động ngân hàng.
Nguyên tắc 11: ngân hàng cần có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích
để đo lường được rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động nội và ngoại bảng. Hệ thống
thông tin quản lý phải cung cấp đầy đủ thông tin về cơ cấu của danh mục cho vay, bao
gồm cả sự xác định của tập trung rủi ro.
Nguyên tắc 12: ngân hàng phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng của
toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng.
Nguyên tắc 13: ngân hàng cần tính đến các thay đổi trong tương lai về các điều
kiện kinh tế khi đánh giá từng khoản tín dụng liên quan và danh mục đầu tư tín dụng,
và phải đánh giá mức độ rủi ro tín dụng trong điều kiện phức tạp.
Nguyên tắc 14: xây dựng hệ thống đánh giá cập nhật và độc lập về quá trình
quản lý rủi ro tín dụng và kết quả đánh giá cần được báo cáo trực tiếp cho HĐQT và
ban giám đốc.
Nguyên tắc 15: chức năng tín dụng của ngân hàng cần được quản lý hiệu quả và
rủi ro tín dụng được nằm trong hệ thống tiêu chuẩn về thận trọng và các giới hạn nội
bộ. Ngân hàng cần xây dựng hệ thống và tăng cường kiểm soát nội bộ và các hoạt
động khác nhằm đảm bảo việc báo cáo kịp thời với các cấp lãnh đạo về các vi phạm
chính sách, thủ tục và giới hạn tín dụng.
Nguyên tắc 16: ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín
dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Nguyên tắc 17: các cơ quan giám sát yêu cầu ngân hàng có hệ thống phát hiện,
đo lường, theo dõi , kiểm tra và xử lý rủi ro tín dụng có hiệu quả, tiến hành đánh giá
độc lập về các chiến lược, chính sách, thủ tục và thực hành có liên quan đến việc cấp
24
tín dụng và quản lý liên tục đối với danh mục đầu tư, xem xét việc đặt ra các giới hạn
thận trọng để hạn chế rủi ro của các ngân hàng đối với từng bên vay hay một nhóm đối
tác liên quan [2]
Các mô hình và biện pháp xử lý nợ xấu
Các mô hình xử lý nợ xấu.
Khi khối lượng nợ xấu gia tăng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển
của nền kinh tế của hệ thống tài chính nói chung và bản thân TCTD nói riêng. Điều
này đặt ra một yêu cầu bức thiết là phải có những biện pháp thich hợp để xử lý nợ xấu,
tùy vào đặc điểm của các quốc gia khác nhau mà có những mô hình xử lý khác nhau.
Nhìn chung có hai mô hình xử lý nợ xấu là:
- Mô hình xử lý nợ phi tập trung:
Trong mô hình này các ngân hàng sẽ đóng vai trò chính trong quá trình xử lý nợ
bằng việc lọc ra bộ phận xử lý rủi ro tài chính các ngân hàng. Bộ phận này có trách
nhiệm chính xử lý các khoản nợ xấu được chuyển giao từ phòng tín dụng. Với nhiệm
vụ chính là phân tích nguyên nhân, đề xuất và xây dựng phương án xử lý các khoản nợ
xấu, xử lý các khoản nợ xấu được phân loại, quản lý hồ sơ đã được xử lý và thu hồi,
xác định khách hàng khả năng tận thu để giảm thấp rủi ro.
- Mô hình xử lý nợ tập trung
Là mô hình xử lý nợ dựa trên việc thành lập ra các công ty mua bán nợ hoạt
động độc lập chuyên xử lý các khoản nợ xấu gồm các hình thức sau:
Công ty xử lý nợ quốc gia: mô hình này nhà nước sẽ đóng vai trò chính trong
quá trình xử lý nợ. Cơ quan này có trách nhiệm chính trong việc xử lý tất cả các khoản
nợ xấu của nền kinh tế được giao từ tổ chức tài chính.
Công ty quản lý và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng (AMC) với mục tiêu
xử lý các khoản nợ theo ủy thác của ngân hàng.
Các công ty tư nhân đứng ra các công ty xử lý nợ với mục tiêu kinh doanh mua
bán nợ thu lợi nhuận là chính.
Các biện pháp xử lý nợ xấu
Cho dù áp dụng mô hình xử lý nợ xấu nào thì biện pháp xử lý nợ xấu vẫn xoay
quanh hai hướng chính là: khai thác và thanh lý.
25
Hướng khai thác: là việc áp dụng các biện pháp không dựa vào các công cụ
pháp luật để thu nợ khách hàng.
Biện pháp này được dùng khi khách hàng lâm vào trạng thái nợ xấu do gặp rủi
ro và có thái độ thỏa đáng với khoản nợ, tức thật thà và có ý chí trả nợ tốt. Tất nhiên là
khách hàng vẫn còn có khả năng về nguồn trả nợ, tài sản còn có, quản lý còn ở mức
lành mạnh.
Áp dụng giải pháp khai thác để xử lý nợ xấu có thể được hiểu như một chương
trình phục hồi áp đặt lên người vay với sự cộng tác và thỏa thuận của họ. Nó có nhiều
hình thức biểu hiện khác nhau: (i) Ngân hàng đưa ra các lời khuyên trên nhiều chủ đề
nhằm tác động đến khả năng cải tạo và thu lợi tức của người vay như: bán bớt tài sản,
thực hiện một chương trình mở rộng sản xuất, định giá lại sản phẩm, thay đổi phương
thức mua bán, tăng sản phẩm mới; (ii) Trong nhiều trường hợp, ngân hàng còn có thể
tăng cho vay để hỗ trợ phương án thu hồi tài sản, nhưng với biện pháp này cần chú ý:
Ngân hàng phải khẳng định được khoản vay bổ sung sẽ góp phần củng cố khả năng
thanh toán toàn bộ các khoản vay; Ngân hàng phải được bổ sung tài sản đảm bảo;
Khách hàng phải được kiểm toán độc lập và có ý kiến dự đoán của chuyên gia về kế
hoạch thu chi tiền mặt; (iii) Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể giúp khách hàng chuyển
sang ngân hàng khác hay một chủ nợ khác nếu có yêu cầu bằng biện pháp bán nợ; (iv)
Trong các trường hợp: bảo đảm tín dụng không đủ, giá trị bảo đảm tài sản giảm, thỏa
thuận vay nợ có sơ hở, khách hàng bất hợp tác hoàn toàn,…Lúc này ngân hàng rơi vào
vị trí yếu hơn, tiến thoái lưỡng nan vì nếu đưa khách hàng vào sự can thiệp của pháp lý
thì số tiền thu được so với chi phí tòa án sẽ ít hiệu quả hơn, nhiều lúc chưa biết có thu
hồi được phần nào không,…trong trường hợp này ngân hàng chỉ còn cách thỏa hiệp
với khách hàng, khi đó ngân hàng có thể: Được thanh toán một phần nợ đã được thỏa
thuận, trong khi tòa án chưa biết kết quả thế nào; Giải phóng thời gian để tập trung vào
công việc khác; Tránh được dư luận không có lợi trong chiến lược khách hàng; (v) Gia
hạn thời gian xử lý: ngân hàng có thể dùng biện pháp này khi khách hàng có một hợp
đồng mới đầy triển vọng sinh lời, nhưng:Ngân hàng phải nắm chắc phải dành được
phần lợi nhuận dự tính của hợp đồng; Dòng tiền của khách hàng không bị rò rỉ sang
chủ nợ khác; Ngân hàng phải nắm giữ hợp đồng và tìm hiểu thiện chí của đối tác.
Hướng thanh lý: là ép khách hàng tuân theo các điều khoản của hợp đồng tín
dụng và thực hiện tất cả các giải pháp pháp lý để thu được nợ.
26
Việc thanh lý chỉ thực hiện sau khi đã thực hiện được một vài hình thức khai
thác nào đó nhưng không thành công, hoặc sau khi ngân hàng nhận thấy khách hàng
không sẵn lòng chi trả, hay hành động lừa đảo - tình trạng vỡ nợ xảy ra.
Biện pháp này do dùng tới pháp luật nên thường xảy ra với các thủ tục pháp lý
rắc rối. Nó có thể gồm: (i) Biện pháp phát mãi tài sản đảm bảo: trong trường hợp việc
thu nợ còn phụ thuộc vào xử lý tài sản đảm bảo thì cần đảm bảo rằng ngân hàng nắm
trong tay toàn bộ hồ sơ có hiệu lực về các tài sản này; (ii) Biện pháp thanh lý doanh
nghiệp: với các khoản nợ không bảo đảm hoặc bảo đảm nhưng giá trị không còn thì
thanh lý doanh nghiệp được thực hiện dưới sự phán quyết của tòa án. Phán quyết này
cho phép nắm giữ và bán tài sản của khách hàng với số lượng phù hợp với quyết định
của tòa án. Nếu tài sản của khách hàng không đủ thì quá trình này vô hiệu lực; (iii)
Biện pháp phá sản doanh nghiệp.
1.3 Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay [11]
Mặc dù đã có nhiều ý kiến trao đổi về nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
(NHTM), nhưng cho đến nay, vẫn chưa có tiếng nói thống nhất nợ xấu về tỷ lệ nợ xấu
của hệ thống NHTM Việt Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng tỷ
lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại các NHTM khoảng 10%. Trong khi cơ quan Thanh tra
NHNN lại đưa ra con số tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng khoảng 8.6%, tương đương
với trên 200.000 tỷ đồng. Bên cạnh những con số được NHNN công bố nói trên, Ủy
ban Giám sát tài chính quốc gia cũng đưa ra tỷ lệ nợ xấu là 11.8%, tương đương với
khoảng 270.000 tỷ đồng. Vậy nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là bao nhiêu vẫn
còn là ẩn số nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng nợ xấu tại các ngân hàng là con số
không nhỏ. Tại sao có sự khác nhau về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng? Có thể lý
giải về sự khác nhau này như sau:
Thứ nhất, do cách phân loại nợ. Theo quy định hiện hành về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng (TCTD), “nợ xấu” là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 (Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN). Trong đó nợ nhóm 3 (nợ dưới chuẩn) là các khoản nợ được
đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) là
các khoản nợ có khả năng tổn thất rất cao và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) là
các khoản nợ được coi là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Thông thường ở các
nước đang phát triển, nếu nợ xấu của các ngân hàng được phân loại theo các chỉ tiêu
27
định lượng và định tính phù hợp với thông lệ quốc tế, thì tỷ lệ này dưới 5% cũng là
bình thường. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn có sự khác nhau về năng lực quản trị rủi ro
và việc xếp hạng tín dụng nội bộ. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại các NHTM
Việt Nam hiện nay đều được xây dựng theo phương pháp chuyên gia, nghĩa là việc lựa
chọn, quyết định toàn bộ các yếu tố cơ bản của hệ thống xếp hạng (bộ chỉ tiêu, trọng
số của từng chỉ tiêu) hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của các chuyên gia
thay vì dựa trên dữ liệu thống kê lịch sử và phân tích mô hình kinh tế lượng. Kết quả
xếp hạng tín dụng nội bộ chưa là cơ sở xây dựng các thước đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ
tính toán chuẩn xác tổn thất dự tính và yêu cầu vốn tối thiểu bù đắp rủi ro. Điều này
dẫn đến hạn chế trong quản trị rủi ro danh mục, định giá tín dụng và xác định khẩu vị
rủi ro… của từng ngân hàng.
Hiện nay, quản trị rủi ro tín dụng tại mỗi ngân hàng thường theo những khẩu vị
rủi ro riêng. Vấn đề này đã dẫn đến một số bất cập trong việc so sánh, đánh giá cùng
một đối tượng khách hàng nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột (cùng 1
khách hàng, có ngân hàng phân loại vào nhóm nợ cao, có ngân hàng lại phân loại vào
nhóm nợ thấp). Mặt khác, việc triển khai xếp hạng khách hàng đòi hỏi đội ngũ chuyên
gia nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng như am hiểu sau sắc mô hình xếp hạng tín dụng
(modelling), trong khi thị trường nhân lực hiện tại của Việt Nam còn rất thiếu.
Thứ hai, thông tin về khách hàng vừa thiếu, vừa không chuẩn xác. Điều này gây
không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc thiết lập quan hệ tín dụng.
Ở Việt Nam, trên 90% là DN nhỏ và vừa, không ít DN có báo cáo tài chính
không chuẩn xác, lại không qua kiểm toán. Ngay cả đối với các DN lớn được kiểm
toán thì sự chậm trễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất lượng kiểm toán
chưa cao cũng gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Vì thế, việc dựa vào một số
thông tin đầu vào để cấp tín dụng, đã dẫn đến một số khoản vay vừa ra khỏi ngân hàng
đã khó có khả năng thu hồi. Đặc biệt, khi ngân hàng và DN lại có mối quan hệ “mật
thiết”, phụ thuộc lẫn nhau (sở hữu chéo) thì nguồn lực dễ bị phân bổ sai lệch, bất hợp
lý, cho vay bất chấp các quy định về an toàn vốn, nợ xấu tất yếu sẽ tăng lên.
Thứ ba, hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu
chéo trong ngân hàng... đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền. Đây cũng là
những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu nhưng rất khó chỉ ra để xử lý, khi tính minh
28
bạch và giải trình còn hạn chế. Tổng phương tiện thanh toán (M2) của 9 tháng đầu
năm tăng 12.21%, nhưng tín dụng chỉ tăng 2.5%, trong khi chứng khoán cũng không
phải là kênh được các ngân hàng quan tâm kể từ khi có văn bản hạn chế cho vay
chứng khoán của NHNN; bất động sản cũng đóng băng; vay tiêu dùng không được
xem là kênh ưu tiên trong thời gian qua. Như vậy, phải chăng nợ xấu đang chạy lòng
vòng giữa ngân hàng và các Doanh nghiệp có quan hệ mật thiết. Nếu thế, nợ xấu sẽ
ngày một phình to và càng khó xác định, lãi suất sẽ tiếp tục bị đẩy lên cao, DN sản
xuất kinh doanh càng khó tiếp cận được vốn.
Thứ tư, nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghiệp của một số
cán bộ ngân hàng và khách hàng. Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức
độ tín nhiệm thì đạo làm nghề ngân hàng không chỉ cần thiết mà còn mang tính bắt
buộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã cấu kết với
khách hàng để che giấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của NHNN, của
NHTM. Mặc dù chưa có số liệu công bố nhưng trong tổng số nợ xấu đó, một tỷ lệ
không nhỏ nảy sinh từ vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề đạo đức
nghệ nghiệp... đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng ngày càng
tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại đã và đang tác động tiêu cực đến điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an
toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Chừng nào chưa xử lý được vấn
đề này thì việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ không đạt hiệu quả [10].
Trước hết, có thể xem qua số liệu về dư nợ và nợ xấu của bốn ngân hàng lớn:
Agribank, BIDV, Vietcombank và Vietinbank trong cả nước như sau:
Theo số liệu của Agribank, BIDV, Vietcombank và Vietinbank, tổng nợ xấu
đến cuối năm 2012 của 4 ngân hàng này là hơn 46,600 tỷ đồng.
29
Biểu đồ 1.1: Tổng dư nợ tín dụng và nợ xấu của 4 ngân hàng Agribank, BIDV,
Vietcombank và Vietinbank tính đến hết năm 2012.
Biểu đồ tổng dư nợ tín dụng và nợ xấu của 4 ngân hàng gribank,
BIDV, Vietcombank và Vietinbank tính đến hết năm 2012.
Nguồn: Tin từ báo Vneconomy
Cụ thể, theo công bố của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(Argribank), tính đến ngày 31/12/2012, nợ xấu toàn hệ thống Agribank hơn 27,800 tỷ
đồng, tương đương tỷ lệ nợ xấu 5.8% trên tổng dư nợ. Tổng dư nợ cho vay (cả ngoại tệ
quy đổi) đến hết năm 2012 của Agribank đạt 480,453 tỷ đồng, tăng trưởng 8.2%. Huy
động vốn từ các tổ chức và dân cư của Agribank đến cuối năm 2012 đạt hơn 540,000
tỷ đồng, tăng 21.5% so với cuối năm 2011.
Trong khi đó, Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam (BIDV) công bố, tính đến
ngày 31/12/2012, dư nợ tín dụng đạt 324,218 tỷ đồng, tăng trưởng 16.2%; nợ xấu ở
mức 2.77% so với tổng dư nợ, tương đương 8,980 tỷ đồng.
Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương (VietinBank), dư nợ tín
dụng đến 31/12/2012 tăng 13.3% so với đầu năm, lên gần 331 nghìn tỷ đồng. Với tỷ lệ
nợ xấu ở mức 1.35%/tổng dư nợ, con số nợ xấu đến hết năm 2012 của Vietinbank
khoảng 4,464 tỷ đồng.
Còn theo báo cáo tài chính riêng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại
thương (Vietcombank), tính đến ngày 31/12/2012, tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng
này đạt 239,773 tỷ đồng, tăng 15.2% so với đầu năm, trong đó, nợ xấu là 5,398 tỷ
đồng, chiếm 2.25% tổng dư nợ [11].