1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

1 Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.21 KB, 97 trang )


6

đến người mắc nợ không thể trả nợ ngân hàng đầy đủ; (iv) Những khoản nợ mà Tòa án

tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi hoàn ít hơn dư nợ.

 Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê - Liên hiệp quốc

Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc trên 90

ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn

hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng

có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Về

cơ bản, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả

năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế

(IAS) hiện đang được áp dụng phổ biến trên thế giới [1].

 Theo định nghĩa của Việt Nam

 Theo Quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ngày 22/4/2005

về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động

Ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và Quyết định số 18/2007 QĐ – NHNN ngày

25/4/2007 về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Quyết định 493 thì nợ xấu được

định nghĩa như sau:

Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn),

nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Nợ xấu theo định nghĩa của

Việt Nam cũng được xác định dựa theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả

năng trả nợ đáng lo ngại.

 Ngày 21/1/2013, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN

Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và

việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài.

Thông tư này sẽ thay thế Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày

22/4/2005 về phân lợi nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng và

Quyết định 18 ban hành ngày 25/4/2007 về sửa đổi, bổ sung Quyết định 493. Theo đó,

việc phân loại nợ để trích lập dự phòng cụ thể được quy định lại theo hướng siết chặt

hơn so với Quyết định 493 và Quyết định 18 và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/06/2013.

Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN thì nợ xấu được định nghĩa như sau: (i) Nợ xấu

(NPL) là nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5; (ii) Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng

nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5; (iii) Tỷ lệ cấp tín dụng xấu là tỷ lệ giữa tổng nợ và cam kết



7

ngoại bảng từ nhóm 3 đến nhóm 5 so với tổng nợ và các cam kết ngoại bảng từ nhóm

1 đến nhóm 5.

1.1.2 Phân loại nợ xấu

Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN: Nợ nhóm 1 và Nợ nhóm 2 hầu như vẫn giữ như

các quy định trước đây. Tuy nhiên, với các khoản nợ xấu (nợ nhóm 3, 4 và 5) đã được

Ngân hàng Nhà nước bổ sung thêm nhiều đối tượng. Tỷ lệ nợ xấu sẽ được tính bằng tỷ

lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5, trước đó, Quyết định 493 không

quy định cụ thể cách tính này.Cụ thể:

Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ trong hạn và được đánh giá

là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, cộng với các khoản nợ quá hạn

dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn

cùng với nợ gốc và lãi còn lại đúng hạn.

Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày, các khoản nợ

được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.

Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày, nợ

gia hạn lần đầu và nợ được miễn giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy

đủ theo hợp đồng tín dụng.

Đặc biệt, nợ nhóm 3 được bổ sung thêm các trường hợp:

(i) Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà tổ

chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo quy

định; (ii) Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con

của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín dụng

khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản đảm bảo bằng cổ phiếu của

chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp; (iii) Nợ không có bảo đảm được cấp với điều

kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài khi cấp cho khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo

quy định; (iv) Nợ cấp cho công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc

doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới

hạn theo quy định; (v) Nợ có giá trị vượt quá giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp

được phép vượt giới hạn, theo quy định của pháp luật; (vi) Nợ vi phạm các quy định

của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và các tỷ lệ đảm bảo an toàn với tổ

chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (vii) Nợ vi phạm các quy định nội bộ



8

về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính sách dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (viii) Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra.

Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) sẽ bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến

360 ngày; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả

nợ được cơ cấu lại lần đầu; Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; Nợ phải thu hồi

theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi

được...

Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ

cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được

cơ cấu lại lần đầu; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ

được cơ cấu lại lần thứ hai; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa

bị quá hạn hoặc đã quá hạn.

Đặc biệt, bổ sung thêm nợ của tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước

công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị

phong tỏa vốn và tài sản.

Các mức dự phòng cụ thể được trích cho các nhóm nợ từ 1 đến 5 vẫn giữ

nguyên so với quy định tại Quyết định 493 là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Mức dự

phòng chung vẫn giữ nguyên là 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4. Ngoài ra,

Thông tư 02 cũng ban hành thêm khái niệm "Tỷ lệ cấp tín dụng xấu" là tỷ lệ giữa tổng

nợ và cam kết ngoại bảng từ nhóm 3 đến nhóm 5 so với các cam kết ngoại bảng từ

nhóm 1 đến nhóm 5.

Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân

hàng nước ngoài ít nhất mỗi quý một lần, trong 15 ngày đầu tiên của tháng mỗi quý

phải tự thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc

cuối cùng của quý trước và gửi báo cáo này lên cho Trung tâm xếp hạng tín dụng

(CIC).

Riêng với quy cuối cùng của kỳ kế toán năm, trong 15 ngày làm việc đầu tiên của

tháng cuối cùng, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện

phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của

tháng thứ hai quý cuối cùng của kỳ kế toán.

Ngoài thời điểm phân loại nêu trên, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng

nước ngoài thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định nội bộ.



9

Thông tư mới sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/6/2013. Các tổ chức tín dụng phi

ngân hàng sẽ thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro kể từ ngày 1/1/2014.

1.1.3 Các dấu hiệu của những khoản nợ xấu

Thực tế cho thấy việc thất bại trong hoạt động kinh doanh thường được biểu hiện

qua một vài dấu hiệu báo động. Có những dấu hiệu mờ nhạt, có những dấu hiệu biểu

hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận ra những dấu hiệu ban đầu của khoản

vay có vấn đề và có những hành động cần thiết để ngăn ngừa và xử lí chúng. Các dấu

hiệu của khoản tín dụng có vấn đề có thể được chia thành các nhóm sau:

Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:

Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của khách

hàng qua một quá trình để cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng gồm:

(i) Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối; (ii) Khó khăn trong thanh toán lương,

(iii) Sự giảm sút số dư tài khoản tiền gửi; (iv) Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài

khoản; (v) Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động có khả năng thanh toán nợ

khi đến hạn; (vi) Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí; (vii) Gia

tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.

Các hoạt động cho vay: (i) Mức độ vay thường xuyên gia tăng; (ii) Thanh toán

chậm các khoản nợ gốc và lãi; (iii) Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.

Phương thức tài chính: (i) Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt

động phát triển dài hạn; (ii) Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất (ví dụ:

thường xuyên sử dụng nghiệp vụ factoring…); (iii) Giảm các khoản phải trả và tăng

các khoản phải thu; (iv) Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu.

Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lí của khách hàng:

Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. Hệ thống

điều hành luôn bất đồng vì mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.

Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: (i) Được hoạch định bởi

HĐQT hoặc giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm; (ii) Thiếu quan tâm đến

lợi ích của cổ đông, chủ nợ; (iii) Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên.

Có các chi phí quản lí bất hợp lí: Tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như

thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, ban giám đốc có cuộc

sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và chi phí cá nhân.

Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại biểu hiện:



10

Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm: (i) Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi

suất, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh, thay đổi thị

hiếu…; (ii) Những thay đổi từ chính sách của nhà nước như: chính sách thuế, điều kiện

thành lập và hoạt động; (iii) Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao; (iv) Có

biểu hiện cắt giảm các chi phí sữa chữa, thay thế.

Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu về xử lí thông tin tài chính kế toán:

Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn các báo cáo tài

chính.

Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy: (i) Sự gia tăng không cân đối về tỷ

lệ nợ thường xuyên; (ii) Tăng doanh số nhưng giảm lãi hoặc không có lãi; (iii) Các tài

khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp; (iv) Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn doanh

số bán, …

Những dấu hiệu phi tài chính khác: là dấu hiệu mà mắt thường cán bộ tín dụng có

thể nhận biết được như: (i) Những vấn đề về đạo đức, thậm chí dáng vẻ nhà kinh

doanh cũng biểu hiện những điều đó; (ii) Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh;

(iii) Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều, hư hỏng, lạc hậu…

1.1.4 Bản chất của nợ xấu

Hoàn trả đầy đủ khoản nợ gốc và lãi cho ngân hàng đến thời điểm đáo hạn là

hành động hoàn tất mối quan hệ tín dụng hoàn hảo giữa ngân hàng và khách hàng.

Như vậy, nợ xấu trong hoạt động tín dụng NHTM là hiện tượng phát sinh từ mối quan

hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay (khách hàng) không thực hiện được

nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn.

Nợ xấu nói chung được xem như một dấu hiệu của vấn đề rủi ro tiềm ẩn. Tuy

nhiên, thực tế một khoản nợ xấu thì cho biết rất ít vấn đề, để xác định bản chất vấn đề

phải tìm hiểu được nguyên nhân của khoản nợ đó. Nếu khoản nợ xấu là một biểu hiện

của việc khách hàng không muốn hoặc không có khả năng hoàn trả thì có thể khoản

vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có nguy cơ không cứu vãn được. Nếu khoản nợ chỉ

hình thành do việc tiêu thụ hàng hóa hoặc thu hồi các khoản phải thu chậm hơn dự tính

hoặc do việc chậm trễ không tính trước được trong việc chuyển từ khâu sản xuất đến

khâu tiêu thụ trên thị trường, thì vấn đề chưa đến mức nghiêm trọng.

Bản chất của nợ xấu gắn liền với bản chất của mối quan hệ tín dụng - đây là

mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có quan hệ với nhau



11

thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ

và hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian nhất định

quay về với người cho vay với giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Do đó, tín dụng

được tạo nên từ 3 yếu tố chính là: lòng tin, thời hạn của quan hệ tín dụng và sự hứa

hẹn hoàn trả. Người ta chỉ cho vay khi người ta tin rằng việc sử dụng giá trị đó sẽ thu

được lượng giá trị lớn hơn, có tính hiệu quả hơn sau một thời gian nhất định.

Như vậy, có thể thấy bản chất nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng

không hoàn hảo, trước hết vì nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời

hạn, sau nữa nó vi phạm đến đặc trưng thứ hai là tính hoàn trả đầy đủ, gây nên sự đổ

vỡ lòng tin của người cung cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng.

1.1.5 Nguyên nhân phát sinh nợ xấu

Một thực tế cho thấy rằng, cho dù quá trình xét duyệt cho vay của CBTD có cẩn

thận, kỹ lưỡng đến đâu đi nữa nhưng vẫn không tránh được rủi ro nợ xấu. Vì vậy,

nguyên nhân gây ra nợ xấu tại các NHTM ngoài từ phía chủ quan của ngân hàng

thương mại mà còn phải kể đến nguyên nhân từ khách hàng vay vốn và các yếu tố

khách quan bên ngoài.

 Nguyên nhân từ phía các NHTM

Do sự yếu kém về trình độ phân tích tài chính của CBTD dẫn đến không có khả

năng nhận diện được rủi ro, thực hiện chưa nghiêm túc các quy định cho vay, , đánh

giá sai về khả năng sử dụng vốn và hoàn trả nợ của khách hàng (i) Sự sa sút về đạo

đức của CBTD và người phê duyệt tín dụng, thiếu tinh thần trách nhiệm, có tình cho

vay vì lợi ích riêng; (ii) Hạn chế về khả năng quản trị: Đưa ra các chính sách tín dụng

không hợp lý, thiết lập quy trình tín dụng không chặt chẽ còn có sơ hở, hiệu quả của

công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát của hệ thống ngân hàng còn kém nên chậm phát

hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm.

Ngân hàng chưa có được cơ chế ràng buộc nghiêm khắc về trách nhiệm đối với

những người thực hiện công tác cho vay như chịu trách nhiệm về tài sản, luật pháp liên

quan đến khoản nợ xấu của ngân hàng hoặc làm thất thoát vốn của ngân hàng…đây là

một sự yếu kém trong chính sách tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nếu người

ra quyết định cho vay không hoặc ít chịu trách nhiệm không chịu bất cứ ràng buộc nào

về quyết định của mình thì CBTD sẽ có thể không cần quan tâm nhiều đến công tác

thẩm định, phân tích…và đây là một trong những nguyên nhân gây ra nợ xấu tại các

ngân hàng.



12

Hệ thống thông tin còn kém, chất lượng thong tin không tốt dẫn đến quá trình

phân tích bị sai lệch, đánh giá sai về khả năng trả nợ của khách hàng.

 Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn

Khách hàng vay vốn cố ý không cung cấp các thông tin không trung thực về

tình hình tài chính của mình cho ngân hàng, điều nay dẫn đến việc thẩm định khả năng

trả nợ của khách hàng không chính xác và quyết định cho vay không chính xác và rủi

ro tín dụng chắn chắn sẽ xuất hiện, gây ra các khoản nợ xấu cho ngân hàng.

Khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích hoặc quá dàn trải dẫn đến

thiếu vốn, sản xuất kinh doanh không hiệu quả;

Khách hàng hạn chế năng lực quản lý, kinh doanh, cơ cấu nguồn vốn không cân

đối, phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay bên ngoài với chi phí sử dụng vốn cao;

Người vay không có thiện chí trả nợ, không lo lắng, không quan tâm đến nợ

ngân hàng. Người đi vay bị thất nghiệp, bị mất việc làm, tai nạn lao động hoặc bất cứ

một sự cố nào đó cũng có thể làm mất khả năng trả nợ của khách hàng.

Các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác định được thông tin qua quá trình

thẩm định, tìm hiểu hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng cả trước, trong và

sau khi cho vay, nhưng cũng có những khả năng mà ngân hàng không thể tiên liệu

trước được trong quá trình thẩm định dẫn tới khả năng bị mất vốn của ngân hàng.

 Nguyên nhân khách quan

Môi trường tự nhiên: khách hàng vay vốn gặp nhiều rủi ro trong hoạt động kinh

daonh như: thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh,…có thể làm phá sản cả

một hệ thống kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có hiệu quả vào thế thua lỗ,

mất khả năng trả nợ.

Môi trường kinh tế: môi trường kinh tế tác động mạnh đến hoạt động kinh

doanh của các NHTM. Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, các doanh nghiệp làm ăn

có hiệu quả và sẽ có nhiều khả năng trả nợ cho NHTM. Ngược lại khi nền kinh tế rơi

vào tình trạng suy thoái, mất ổn định khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

gặp nhiều khó khăn, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hóa bị ứ đọng và

tất yếu là sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.

Môi trường pháp lý, chính sách: các chính sách vĩ mô của Chính Phủ cũng ảnh

hưởng không nhỏ đến hoạt động của các NHTM. Nếu Chính Phủ theo đuổi mục tiêu

tăng trưởng kinh tế sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, khi lạm phát tăng cao sẽ làm tăng chi



13

phí đầu vào của các khách hàng, gây khó khăn trong việc sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm, hoặc thay đổi trong các cơ chế chính sách của chính phủ như: thay đổi quy

hoạch hạ tầng, thay đổi cơ chế lãi suất, chính sách thuế,…làm ảnh hưởng lớn đến hoạt

động kinh doanh của người đi vay. Hậu quả là năng lực trả nợ của khách hàng đối với

ngân hàng sẽ giảm.

Môi trường pháp lý cho hoạt động cho vay còn chưa đầy đủ, rõ ràng, Vấn đề

này gây rất nhiêu khó khăn cho các NHTM trong việc ngăn ngừa, phân loại và xử lý

các khoản nợ xấu. Hành lang pháp lí liên quan tới tài sản đảm bảo còn nhiều bất cập,

các quy định về kế toán, kiểm toán chưa đủ khả năng và hiệu lực buộc các doanh

nghiệp thực hiện chế độ kế toán chính xác, kịp thời gây nhiều khó khăn trong việc

thẩm định cho vay của ngân hàng.

1.1.6 Tác động của nợ xấu

 Đối với ngân hàng thương mại

Nợ xấu tác động hầu hết tới các hoạt động của ngân hàng thương mại, thậm chí

số dư nợ xấu lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng.

Trước hết, nợ xấu làm cho giảm lợi nhuận của các ngân hàng thương mại. Nợ

xấu hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của ngân

hàng thương mại. Khi mà nợ xấu tăng cao, thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí

không còn lợi nhuận do không thể thu hồi được nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập

dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên quan.

Thứ hai là nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao,

vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của ngân hàng thương mại

trong nước và quốc tế bị giảm sút nghiêm trọng.

Thứ ba, nợ xấu ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh

của ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi và cho

vay. Nếu các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp rất nhiều khó

khăn, không thu hồi được hoặc thu hồi không đầy đủ nợ gốc và lãi đã cho vay. Trong

khi đó, ngân hàng vẫn phải thanh toán đúng hạn và đầy đủ đối với các khoản tiền gửi.

Sự mất cân đối trên ảnh hưởng mạnh tới tính thanh khoản của ngân hàng và ảnh hưởng

đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.

Thứ tư, nợ xấu có thể cản trở quá trình hội nhập của các ngân hàng thương mại.

Nợ xấu tác động trực tiếp tới khả năng tài chính của ngân hàng thương mại khi phân



14

tích đánh giá tình hình tài chính hoạt động ngân hàng và là yếu tố bất lợi trong cạnh

tranh, trong quá trình hội nhập và phát triển.

 Tác động đến người đi vay

Nợ xấu là gánh nặng buộc người vay phải giải quyết trong tình trạng tài chính

không tốt, tạo áp lực trả nợ cho các doanh nghiệp, do đó có thể dẫn đến việc ra quyết

định kinh doanh sai lầm.

Người vay không hoàn trả nợ đúng hạn, mang lại nợ xấu cho ngân hàng sẽ mất

uy tín và mất điểm trong hệ thống xếp hạng của các NHTM. Điều này ảnh hưởng

nghiêm trọng đến việc tìm nguồn vốn tài trợ sau này của người đi vay.

Ngoài ra, việc không thanh toán được món nợ vay của NHTM, người đi vay

còn đứng trước nguy cơ bị thanh lý tài sản đem đi thế chấp, cầm cố nghiêm trọng hơn

là rơi vào tình trạng phá sản.

 Tác động đến nền kinh tế nói chung

Nợ xấu không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM mà còn tác động xấu

đến nền kinh tế, điều này thể hiện:

Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng cao sẽ gây tâm lý hoang mang cho người

gửi tiền. Hiệu ứng rút tiền ồ ạt có thể sẽ làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán,

có thể dẫn đến phá sản. Hoạt động ngân hàng lại mang tính hệ thống, một ngân hàng

đổ vỡ, sẽ kéo theo sự đổ vỡ hàng loạt các ngân hàng khác. Các chủ thể trong nền kinh

tế tham gia vào quá trình thanh toán nội đãi hoặc thanh toán quốc tế thông qua hệ

thống ngân hàng sẽ không tin tưởng vào uy tín của ngân hàng điều này có thể dẫn đến

việc ký kết các hợp đồng thương mại, hoặc phải thanh lý hợp đồng trước hạn,…

Nợ xấu tăng cao làm hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng trong khi nhu

cầu của các chủ thể nền kinh tế là rất lớn dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất, lãng phí cơ

sở vật chất, thất nghiệp gia tăng…ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ tăng trưởng nền

kinh tế.

Nợ xấu gia tăng dẫn đến ngân hàng có thể bị phá sản, từ đó sẽ tạo hiệu ứng lan

truyền, suy giảm hệ thống tài chính và to lớn hơn là khủng hoảng tài chính.

Mặt khác, tỷ lệ nợ xấu tăng cao thể hiện sự kém hiệu quả trong hoạt động kinh

doanh của NHTM, gây ra sự thiếu tin tưởng của công chúng vào ngân hàng thương

mại, tỷ lệ huy động vốn từ dân cư thấp, dẫn đến tỷ lệ tích lũy nội bộ thấp, ngân hàng

không có đủ nguồn vốn để tài trợ cho các hoạt động đầu tư dài hạn, đồng thời làm cho

tăng trưởng có xu hướng lệ thuộc vào nước ngoái, làm cho nợ nước ngoài càng tăng.



15

Tóm lại, có thể nói nợ xấu là vấn đề nhức nhối của mọi nền kinh tế của các

NHTM cũng như là người đi vay. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong giai đoạn

hiện nay là một minh chứng rõ nhất về ảnh hưởng của nợ xấu. Nhận thức được điều

này, việc nâng cao hiệu quả công tác ngừa và xử lý nợ xấu trong hoạt động của NHTM

là một vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

1.2 Xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại

1.2.1 Sự cần thiết phải xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại

NHTM là một trung gian tài chính có chức năng dẫn vốn từ nơi có khả năng

cung ứng vốn đến những nơi có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu tư, phát

triển kinh tế. Do đó, một sự biến động của Ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu đến chính hệ

thống Ngân hàng và nền kinh tế mà nợ xấu là một trong những nguyên nhân chủ yếu

gây ra. Tác hại của nợ xấu thể hiện trên hai nội dung sau:

 Đối với nền kinh tế

Nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu

quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển

kinh tế do ứ đọng vốn, sản xuất kinh doanh đình trệ.

Nợ xấu tùy theo tính chất và mức độ, không chỉ ảnh hưởng tới Ngân hàng mà

còn cả tới các doanh nghiệp, các cá nhân liên quan và toàn bộ nền kinh tế. Trên giác

độ vĩ mô, nợ xấu làm giảm tính tích cực của tín dụng đối với nền kinh tế, cản trở

NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng, cung cấp vốn cho nền kinh tế.

Việc điều tiết vĩ môt kinh tế thông qua các NHTM cũng trở nên kém hiệu quả.

Ở mức độ trầm trọng, nợ xấu không chỉ gây mất vốn, mất khả năng thanh toán

dẫn tới sự sụp đổ không chỉ của một Ngân hàng mà còn kéo theo ảnh hưởng dây

truyền làm chao đảo toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Điều đó gây rối loạn lưu thông tiền

tệ trong nước, gây đình trệ sản xuất và khủng hoảng kinh tế.

Lịch sử hoạt động của các NHTM trên thế giới đã chứng kiến không ít các

Ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong phạm vi

một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực hay toàn châu lục.

Tóm lại, nợ xấu không những tác động đối với Ngân hàng mà còn nguy hại đối

với cả nền kinh tế, trật tự xã hội. Do đó, quan tâm quản trị nợ xấu không còn là việc

riêng của các NHTM mà là sự quan tâm chung của cả NHNN, Chính phủ và xã hội.



16

 Đối với Ngân hàng:

Thứ nhất - Làm giảm lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng của Ngân hàng,

lợi nhuận được hình thành từ những khoản thu của Ngân hàng mà những khoản thu

này chủ yếu thu từ lãi cho vay. Nợ xấu tác động đến lợi nhuận Ngân hàng trên hai khía

cạnh đó là: (i) Đã phát sinh nợ xấu thì lãi của những khoản nợ xấu khó có thể thu được

hay thu không bao giờ đủ. Do đó, sẽ làm giảm thu nhập kinh doanh của Ngân hàng;

(ii) Phát sinh nợ xấu tất yếu Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro cho khoản vay

đó, tức là làm tăng chi phí của Ngân hàng đồng thời làm giảm lợi nhuận.

Thứ hai - Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh: Các

khoản vay của khách hàng không được thanh toán đúng hạn, hay khi chuyển sang quá

hạn thì việc thu nợ đã không đúng theo kế hoạch của Ngân hàng gây ra thiếu hụt so

với dự tính của kế hoạch. Sự việc này chỉ trong một giới hạn nhất định, song nếu vượt

qua một giới hạn cho phép Ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán,

và không có kế hoạch cho tương lai.

Thứ ba - Làm mất uy tín của Ngân hàng: Những ảnh hưởng của nợ xấu dẫn đến

lợi nhuận giảm, khả năng thanh toán giảm… nó có tác động sâu sắc đến tâm lý khách

hàng “hiệu ứng khách hàng” kể cả là khách hàng cá thể, doanh nghiệp hay các Ngân

hàng đối tác. Trong lĩnh vực ngân hàng uy tín tuyệt đối quan trọng, nó quyết định sự

sống còn, tồn tại và phát triển một Ngân hàng.

Thứ tư - Không duy trì được đội ngũ nhân viên: Khi một ngân hàng làm ăn

không hiệu quả, hay để tình trạng nợ xấu nhiều sẽ gây tâm lý hoang mang cho không

những khách hàng mà còn cho chính nhân viên Ngân hàng, sẽ không giữ được những

người làm việc hiệu quả ở lại, đây là một chi phí rất lớn cho Ngân hàng [2].

1.2.2 Nhân tố ảnh hưởng đến công tác xử lý nợ xấu

 Nhân tố khách quan

- Môi trường kinh tế - xã hội

Với những nền kinh tế nhỏ bé, sản xuất công nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu là

thành phẩm đơn giản như dầu thô, may gia công, chế biến thực phẩm và nguyên liệu…

thì rất dễ bị tổn thương khi nền kinh tế thế giới biến động mạnh. Nếu thế giới ít biến

động thì hoạt động của các doanh nghiệp cũng được đảm bảo, khả năng trả nợ cho

Ngân hàng càng cao. Còn thế giới biến động mạnh mẽ: giá cả, tỷ giá, hạn ngạch,



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

×