Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.21 KB, 97 trang )
29
Biểu đồ 1.1: Tổng dư nợ tín dụng và nợ xấu của 4 ngân hàng Agribank, BIDV,
Vietcombank và Vietinbank tính đến hết năm 2012.
Biểu đồ tổng dư nợ tín dụng và nợ xấu của 4 ngân hàng gribank,
BIDV, Vietcombank và Vietinbank tính đến hết năm 2012.
Nguồn: Tin từ báo Vneconomy
Cụ thể, theo công bố của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(Argribank), tính đến ngày 31/12/2012, nợ xấu toàn hệ thống Agribank hơn 27,800 tỷ
đồng, tương đương tỷ lệ nợ xấu 5.8% trên tổng dư nợ. Tổng dư nợ cho vay (cả ngoại tệ
quy đổi) đến hết năm 2012 của Agribank đạt 480,453 tỷ đồng, tăng trưởng 8.2%. Huy
động vốn từ các tổ chức và dân cư của Agribank đến cuối năm 2012 đạt hơn 540,000
tỷ đồng, tăng 21.5% so với cuối năm 2011.
Trong khi đó, Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam (BIDV) công bố, tính đến
ngày 31/12/2012, dư nợ tín dụng đạt 324,218 tỷ đồng, tăng trưởng 16.2%; nợ xấu ở
mức 2.77% so với tổng dư nợ, tương đương 8,980 tỷ đồng.
Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương (VietinBank), dư nợ tín
dụng đến 31/12/2012 tăng 13.3% so với đầu năm, lên gần 331 nghìn tỷ đồng. Với tỷ lệ
nợ xấu ở mức 1.35%/tổng dư nợ, con số nợ xấu đến hết năm 2012 của Vietinbank
khoảng 4,464 tỷ đồng.
Còn theo báo cáo tài chính riêng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại
thương (Vietcombank), tính đến ngày 31/12/2012, tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng
này đạt 239,773 tỷ đồng, tăng 15.2% so với đầu năm, trong đó, nợ xấu là 5,398 tỷ
đồng, chiếm 2.25% tổng dư nợ [11].
30
1.4 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm rút ra cho Việt Nam
1.4.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới:
1.4.1.1 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu được Trung Quốc áp dụng
Theo quy định của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (với tư cách là Ngân hàng
Trung ương), bộ phận tín dụng của NHTM cần phải có các quy trình kiểm tra trước,
trong và sau khi cho vay, kịp thời thu thập thông tin để phân loại, thiết lập và hoàn
chỉnh hồ sơ phân loại, kịp thời đề xuất kiến nghị kiểm tra lại; chịu trách nhiệm về tính
chân thực, tính chuẩn xác, tính hoàn chỉnh của các dữ liệu phân loại đã cung cấp; tiến
hành phân loại sơ bộ tài sản theo tiêu chuẩn phân loại, đề xuất ý kiến và lý do phân
loại; định kỳ báo cáo cho bộ phận quản lý rủi ro những thông tin phân loại của bộ phận
tín dụng; căn cứ vào kết quả phân loại tiến hành quản lý các khoản tín dụng có sự phân
biệt trong quản lý đối với từng khoản tín dụng, thực hiện các biện pháp cải tiến, loại
trừ và xử lý rủi ro.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành Hướng dẫn trích lập dự phòng
tổn thất cho vay, yêu cầu các NHTM kiểm tra định kỳ đối với các loại tài sản dựa trên
nguyên tắc thận trọng dự kiến một cách hợp lý các khoản tài sản có khả năng phát sinh
tổn thất và trích lập dự phòng giảm giá tài sản đối với các tài sản có khả năng phát sinh
tổn thất như dự phòng tổn thất cho vay,… Đồng thời, theo đó các khoản tín dụng được
phân thành 5 nhóm: nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú ý (nhóm 2), nợ dưới tiêu
chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5), trong đó nợ
nhóm 3, 4, 5 được gọi là nợ xấu. Việc trích lập dự phòng tổn thất cho vay bao gồm: dự
phòng chung và dự phòng cụ thể: (i) Dự phòng chung được trích hàng tháng và được
xác định bằng 1% số dư cuối kỳ của các khoản tín dụng, (ii) Dự phòng cụ thể: Vào
cuối tháng, dựa theo kết quả phân loại nợ và sau khi khấu trừ giá trị tài sản thế chấp,
NHTM trích lập dự phòng cụ thể theo số dư các khoản tín dụng với tỷ lệ như sau:
nhóm 1: 0%; nhóm 2: 2%; nhóm 3: 25%; nhóm 4: 50%; nhóm 5: 100%. Khi phân loại
các khoản tín dụng, NHTM Trung Quốc chủ yếu dựa trên cơ sở khả năng trả nợ và
dòng tiền thuần, thiện trí trả nợ, tài sản đảm bảo, trách nhiệm pháp luật về thanh toán
nợ vay của khách hàng, tình hình quản lý tín dụng của ngân hàng,…
Trong phân loại nợ, các NHTM Trung Quốc lấy việc đánh giá khả năng trả nợ
của khách hàng là cốt lõi, xem thu nhập kinh doanh bình thường của khách hàng là
31
nguồn vốn trả nợ chủ yếu, tài sản đảm bảo là nguồn vốn trả nợ thứ yếu. Đối với khoản
cho vay mới, ngân hàng xem xét lịch sử giao dịch, tình trạng uy tín của khách hàng với
ngân hàng khác. Nếu khách hàng vay là công ty mới thành lập thì chủ yếu xem xét lịch
sử giao dịch, uy tín của các cổ đông. Lịch sử trả nợ của khách hàng có thể phản ánh
tình trạng gia hạn, quá hạn nợ vay của họ, đây là yếu tố quan trọng cần xem xét khi
tiến hành phân loại các khoản tín dụng. Để thực hiện xử lý nợ xấu, Trung Quốc đã
thành lập 04 công ty quản lý tài sản với vốn điều lệ khoảng 05 tỷ USD (tương đương
1% tổng số nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Trung Quốc hiện nay). Đây là một con số
rất nhỏ so với khối lượng nợ xấu, do đó năm 2004, khi một khối lượng nợ bằng 370 tỷ
USD được chuyển giao cho các AMC, để đảm bảo nguồn vốn cân bằng với khối lượng
nợ chuyển sang các AMC đã phải vay từ Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (262 tỷ
USD) và phát hành trái phiếu (108 tỷ USD). Kết quả đến tháng 03/2007 các AMC xử
lý được 272,9 tỷ USD mà phần lớn là chuyển nợ thành vốn chủ sở hữu (192,7 tỷ
USD). Như vậy là kết quả mà các AMC đạt được là rất đáng ghi nhận và là tấm gương
cho chúng ta học tập [4]
1.4.1.2 Kinh nghiệm quản trị nợ xấu được Thái Lan áp dụng
Trong khi đó, để quản trị tốt nợ xấu của quốc gia mình, Chính phủ Thái Lan đã
thực thi một số chính sách tích cực để tháo gỡ khó khăn, giảm thiểu nợ xấu trong hệ
thống Ngân hàng, đặc biệt là xử lý các tài sản thế chấp.
Chính phủ cho phép các NHTM, mỗi Ngân hàng được mua tối đa 10% vốn điều
lệ. Trong từng trường hợp cần thiết, Chính phủ có thể mua cổ phiếu của các Ngân
hàng gặp khó khăn và cần thiết sát nhập giải thể. Đồng thời, Nhà nước cho phép thành
lập Quỹ phát triển và phục hồi tài chính cho Bộ Tài Chính quản lý để phát hành trái
phiếu dùng để mua cổ phần của các NHTM, công ty tài chính, nếu không đáp ứng
được yêu cầu sẽ kêu gọi nước ngoài mua cổ phần.
Để cơ cấu lại nợ và dự phòng rủi ro, Chính phủ thành lập “Ủy ban cơ cấu lại
khu vực tài chính tư nhân”. Về cơ cấu lại nợ, có 3 biện pháp: (i) Điều chỉnh, sửa lại
hợp đồng vay vốn như hạ lãi suất vay, giảm gốc vốn vay, tăng thời hạn vay, hoặc yêu
cầu con nợ chuyển giao tài sản thế chấp để bán, chấp nhận lỗ để xóa nợ; (ii) Kết hợp
giữa việc điều chỉnh lại hợp đồng với việc chuyển giao tài sản thế chấp để xử lý; (iii)
Giãn nợ khi con nợ tạm thời gặp khó khăn trong thu chi tài chính, sản xuất kinh doanh.
Việc phân loại nợ quá hạn để dự phòng rủi ro được tính theo 5 loại:(i) Loại 1:
Nợ quá hạn bình thường, trong thời gian 1 tháng không thu được, tỷ lệ dự phòng rủi ro
32
là 1%; (ii) Loại 2: Nợ quá hạn không bình thường, trong thời hạn từ 1 đến 3 tháng
không thu được, tỷ lệ dự phòng rủi ro là 2%; (iii) Loại 3: Nợ quá hạn dưới tiêu chuẩn
bình thường, trong hạn từ 3 đến 6 tháng không thu được, tỷ lệ dự phòng rủi ro là 20%;
(iv) Loại 4: Nợ khó đòi, trong thời hạn từ 6 đến 12 tháng không thu được, tỷ lệ dự
phòng rủi ro là 50%; (v) Loại 5: Nợ quá hạn mất trắng, trên 12 tháng không thu được,
tỷ lệ dự phòng rủi ro là 100%.
Việc trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện 6 tháng 1 lần, chính vì vậy, Chính
phủ Thái Lan đã có thể quản trị tốt nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng của mình [4].
1.4.2 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Từ các kinh nghiệm quản trị nợ xấu ở một số quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể
rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu trong quản trị nợ xấu của Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đối với mỗi một quốc gia khi xử lý nợ xấu thì sự hỗ trợ của Chính
phủ và các Ban ngành chức năng là điều kiện cần thiết hơn bao giờ hết. Chính phủ
đóng vai trò chỉ đạo và định hướng thống nhất cho các NHTM trong quá trình thực
hiện xử lý nợ xấu. Chính phủ có thể ban hành các văn bản, quy định tạo ra hành lang
pháp lý phù hợp cũng như hỗ trợ giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc nằm
ngoài tầm kiểm soát, điều tiết xử lý của NHTM.
Thứ hai, việc xử lý nợ xấu nhìn chung đều thông qua một tổ chức trung gian là
Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản của chính bản thân Ngân hàng và công ty mua
bán nợ hoặc xử lý nợ trực thuộc Chính phủ. Tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi
nước mà tổ chức này có cách thức tổ chức này có cách thức tổ chức, cơ chế và quy mô
hoạt động khác nhau, nhưng tất cả đều có nhiệm vụ chung là mua lại nợ của các
NHTM đang bị tồn đọng để xử lý, bán ra thu hồi vốn về.
Thứ ba, việc xử lý nợ xấu cần có lộ trình cụ thể và phải tuân thủ thời hạn đã đề
ra. Nếu thời gian xử lý nợ xấu càng dài thì kết quả thu được càng hạn chế, nếu xử lý
nợ xấu càng nhanh thì hệ thống Ngân hàng cũng như nền kinh tế càng có lợi.
Thứ tư, khi phân loại các khoản tín dụng, có thể dựa trên cơ sở khả năng trả nợ
và dòng tiền thuần, thiện trí trả nợ, tài sản đảm bảo, trách nhiệm pháp luật về thanh
toán nợ vay của khách hàng, tình hình quản lý tín dụng của ngân hàng,…giống như
các NHTM Trung Quốc đã áp dụng.
Thứ năm, trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện 6 tháng 1 lần để có thể quản
trị tốt nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng của mình giống như các NHTM Thái Lan đã
áp dụng.
33
Thứ sáu, việc xử lý nợ xấu phải đi đôi với ngăn chặn nợ xấu tái diễn trong
tương lai. Việc ngăn chặn nguy cơ nợ xấu đối với các Ngân hàng đòi hỏi có các giải
pháp tổng thể và các chính sách kinh tế vĩ mô phải lành mạnh.
Thứ bảy, một vấn đề nữa có thể thấy, đó là trong khi xử lý nợ xấu các NHTM
phải chấp nhận tổn thất khá lớn, song với mục tiêu hạn chế tối đa thiệt hại và thu hồi
vốn nhanh nhất [4]
34
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Ở chương 1 tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về xử lý nợ xấu của ngân
hàng thương mại. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề cập đến khái niệm về nợ xấu cũng
như sự khác biệt trong cách phân loại nợ xấu của Việt Nam và thế giới, ảnh hưởng của
nợ xấu tới nền kinh tế, tới ngân hàng…, các dấu hiệu và nguyên nhân dẫn đến nợ xấu,
đồng thời trình bày một số kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và
bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
Nội dung của chương này là cơ sở lý luận, là nền tảng của các chương tiếp theo.
Biết được các phân loại nợ ở Việt Nam, hiểu được sự khác biệt so với cách phân loại
của thế giới mới có thể có cái nhìn tổng quát về nợ xấu của các NHTM Việt Nam, giúp
cho các NHTM có một đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng tại ngân hàng
mình. Hiểu được tác động của nợ xấu tới nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng…điều
này giải thích được tại sao phải ngăn ngừa nợ xấu, khẳng định được vai trò của công
tác phòng ngừa, xử lý nợ xấu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
35
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN
HÀNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KHÁNH HOÀ
2.1 Khái quát tình hình hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong
những năm qua
2.1.1 Khái quát chung:
Cùng với hệ thống ngân hàng cả nước, những năm qua, ngành ngân hàng
Khánh Hòa đã có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, góp
phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước nói chung và tỉnh Khánh
Hòa nói riêng. Từ chỗ chỉ có 4 chi nhánh ngân hàng thương mại Nhà nước, tính đến
ngày 31/12/2012 tổng số Chi nhánh TCTD trên địa bàn tỉnh lên đến 35 Chi nhánh bao
gồm: 06 Chi nhánh Ngân hàng thương mại Nhà nước, 01 Chi nhánh Ngân hàng Chính
sách Xã hội, 01 Chi nhánh Ngân hàng Phát triển, 01 Chi nhánh Công ty cho thuê tài
chính, 01 Chi nhánh Ngân hàng liên doanh Việt Nga, 25 Chi nhánh Ngân hàng thương
mại cổ phần và 3 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Tổng số điểm giao dịch ngân hàng là
147 điểm, được phân bố đến các huyện, thị, vùng nông thôn.
Đến cuối tháng 3-2011, dư nợ cho vay toàn tỉnh đạt gần 20.000 tỷ đồng, tăng 9
lần so với cuối năm 2000, vốn huy động đạt gần 22.000 tỷ đồng, tăng 10,7 lần… Đến
cuối tháng 12-2012, dư nợ cho vay toàn tỉnh đạt hơn 22.000 tỷ đồng, tăng10% so với
cuối năm 2011, vốn huy động đạt hơn 31.000 tỷ đồng, tăng 35 %… Với những thành
tích đạt được trên các mặt hoạt động, vừa qua Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khánh
Hoà đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì; Giám đốc
Chi nhánh được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba [7].
2.1.2 Kết quả hoạt động của ngân hàng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa
Công tác huy động vốn:
Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn quan
trọng và chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hang và là tài nguyên
quan trọng bậc nhất của bất kể một ngân hàng nào. Sự tăng trưởng của nó có ý nghĩa
quan trọng trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng.