1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo và chính sách đào tạo nguồn nhân lực KH&CN tại Nhà máy X51

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 74 trang )


Chƣơng 2 Thực trạng công tác đào tạo và chính sách đào

tạo nguồn nhân lực KH&CN tại Nhà máy X51

2.1 Giới thiệu về nhà máy X51

Nhà máy X51 (Công ty TNHH MTV Đóng và sửa tàu Hải Minh) được

xây dựng và phát triển trên cơ sở của "Căn cứ yểm trợ tiếp vận Nhà Bè", nằm

trong "Khu căn cứ quân sự hỗn hợp Nhà Bè" của chế độ cũ, được ta tiếp quản

sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Khu căn cứ quân sự hỗn hợp Nhà Bè là sản phẩm của cuộc chiến tranh

xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. Khu căn cứ này được Mỹ khởi công xây

dựng từ năm 1968 và hoàn thành vào cuối năm 1971. Thời kỳ đầu, khu căn cứ

do hải quân Mỹ trực tiếp quản lý, điều hành. Bị thất bại trong cuộc chiến

tranh xâm lược Việt Nam, buộc quân Mỹ và quân các nước chư hầu phải rút

khỏi miền Nam nước ta. Năm 1971, Mỹ bắt đầu chuyển giao căn cứ quân sự

hỗn hợp Nhà Bè cho ngụy quân quản lý, đến cuối năm 1972 thì công tác bàn

giao được hoàn thành.

Năm 1975, cùng với năm cánh quân trên các hướng tiến về giải phóng

Sài Gòn, Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác (nay là Trung đoàn 10) tiến hành tiếp

quản khu căn cứ quân sự hỗn hợp Nhà Bè, gồm các đơn vị (theo biên chế

trước đây của quân ngụy): Bộ chỉ huy đặc khu Rừng Sát, Giang đoàn 22 xung

phong, Giang đoàn 57 tuần thám, Căn cứ yểm trợ tiếp vận Nhà Bè, Trung tâm

sửa chữa điện tử, Đại đội pháo 105 ly, sân bay lên thẳng dã chiến và một bệnh

xá.

Theo nguyên tắc tiếp quản của trên và được nhất trí của Trung đoàn 10,

ngày 10 tháng 5 năm 1975, Đoàn cán bộ tiếp quản của Cục Kỹ thuật Hải quân

tiến hành tiếp nhận bộ phận kỹ thuật của Khu căn cứ quân sự hỗn hợp Nhà Bè

do Trung đoàn 10 bàn giao gồm: Căn cứ yểm trợ tiếp vận Nhà Bè, Trung tâm

sửa chữa điện tử, giang đoàn 57 tuần thám, khu sân bay lên thẳng...

Sau khi tiếp nhận, đơn vị lấy tên là "Đơn vị Hải quân nhân dân giải

phóng khu vực Nhà Bè", sau đó tên đơn vị được đổi lại là "Căn cứ Hải quân

Nhà Bè". Ngày 2 tháng 7 năm 1975, đơn vị đã tiếp nhận xong toàn bộ khu kỹ

23



thuật của căn cứ quân sự hỗn hợp Nhà Bè với tổng diện tích 113.289m2,

trong đó, có 10.385m2 diện tích nhà xưởng, 2.436m2 diện tích nhà kho.

Trung đoàn 10 rút ra đóng quân ở khu vực phía ngoài căn cứ. Lúc này khu

căn cứ quân sự hỗn hợp Nhà Bè có hai đơn vị đóng quân, hình thành hai cổng,

hai vọng gác: cổng và vọng gác phía ngoài do Trung đoàn 10 quản lý, cổng và

vọng gác phía trong do Xưởng Nhà Bè quản lý.

Đầu tháng 7 năm 1975, sau khi tiếp nhận xong toàn bộ khu kỹ thuật do

Trung đoàn 10 bàn giao, quân số được tăng thêm (do trên tăng cường và tiếp

nhận số nhân viên cũ trở lại làm việc), đơn vị tiến hành khôi phục lại toàn bộ

hoạt động của căn cứ, nhanh chóng đưa các mặt hoạt động trở lại bình

thường. Cùng với việc ổn định tổ chức biên chế và khôi phục hoạt động của

các phân xưởng sản xuất, đơn vị lấy tên là "Xưởng Nhà Bè" và được Bộ Tư

lệnh Hải quân cấp con dấu "Đơn vị 7031", mọi quan hệ giao dịch công tác đối

với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội và các văn bản, đơn vị sử

dụng duy nhất một con dấu "Đơn vị 7031".

Năm 1977, thực hiện quy định của Bộ Tham mưu Hải quân về phiên

hiệu của một số đơn vị trong Quân chủng, Xưởng Nhà Bè được gọi theo

phiên hiệu mới là Xưởng 51 trực thuộc Vùng 4 Hải quân. Theo kế hoạch sắp

xếp, chấn chỉnh lực lượng của Quân chủng Hải quân, ngày 9 tháng 4 năm

1977, Xưởng 51 được bàn giao về trực thuộc Cục Kỹ thuật Hải quân.

Vào cuối những năm 80, tình hình tranh chấp chủ quyền trên khu vực

quần đảo Trường Sa và thềm lục địa phía Nam của ta diễn biến rất phức tạp.

Trước tình hình đó, nhiệm vụ chi viện và xây dựng Trường Sa trở thành

nhiệm vụ hết sức cấp bách, khẩn trương. Thực hiện nghị quyết của Đảng ủy

và mệnh lệnh của Tư lệnh Hải quân về tổ chức chiến dịch CQ.88, Xưởng 51

cử các lực lượng đi tham gia bảo đảm kỹ thuật cho chiến dịch và tập trung lực

lượng sửa chữa các tàu, xuồng, thi công cải hoán các ponton cho đảo phục vụ

chiến dịch đúng thời gian quy định. Do hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công

tác kỹ thuật phục vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa và khu

vực DK1, ngày 31 tháng 3 năm 1988, Xưởng 51 được Chủ tịch Hội đồng Nhà

nước tặng thưởng "Huân chương Chiến công hạng Nhất".

24



Thực hiện quyết định của Bộ Tổng Tham mưu về việc Bộ Chỉ huy quân

sự thành phố Hồ Chí Minh bàn giao toàn bộ đất đai, doanh trại của Trung

đoàn 10 ở khu vực mũi Nhà Bè thành phố Hồ Chí Minh cho Xưởng 51 Hải

quân để mở rộng xí nghiệp theo quy hoạch của Bộ Quốc phòng, ngày 12

tháng 3 năm 1990, Trung đoàn 10 và Xưởng 51 đã tiến hành bàn giao toàn bộ

đất đai, doanh trại hiện do Trung đoàn 10 quản lý (trừ khu gia đình cán bộ của

Trung đoàn) cho Xưởng 51, Trung đoàn 10 sẽ chuyển đi đóng quân tại địa

điểm mới. Từ thời gian này trở đi, Xưởng 51 đã tiếp nhận toàn bộ khu căn cứ

quân sự hỗn hợp Nhà Bè trước đây với tổng diện tích khoảng 13,5ha.

Ngày 17 tháng 4 năm 1993, Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định đổi tên

các xưởng sửa chữa của Quân chủng Hải quân thành các nhà máy, xí nghiệp.

Thực hiện quyết định trên, kể từ ngày 20 tháng 5 năm 1993 trở đi, Xưởng 51

được gọi theo tên mới là Nhà máy X51. Tiếp theo, ngày 4 tháng 8 năm 1993,

Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước, trong

đó, thành lập lại doanh nghiệp nhà nước: Xí nghiệp Sửa chữa tàu Hải Minh

trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đây là những sự kiện quan trọng trong quá

trình xây dựng và phát triển của Nhà máy X51.

Tiếp tục thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng,

chủ trương quy hoạch xây dựng các xí nghiệp công nghiệp hải quân và

phương hướng xây dựng Nhà máy X51 trở thành trung tâm bảo đảm kỹ thuật

ở khu vực phía Nam của Quân chủng Hải quân, Nhà máy X51 được Bộ Quốc

phòng tiếp tục đầu tư chiều sâu với nhiều dự án lớn, trong đó có hai dự án

trọng điểm là dự án đầu tư chiều sâu công nghệ sửa chữa đồng bộ tàu bổ trợ

hải quân và dự án xây dựng ụ sửa chữa tàu 5.000 tấn. Đây là hai dự án rất

quan trọng, góp phần nâng cao năng lực và trình độ công nghệ sửa chữa của

nhà máy, giải quyết kịp thời khó khăn hiện tại của nhà máy về phương tiện

tiếp nhận tàu vào sửa chữa.

Năm 2000, nhà máy được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất vì "Đã có thành

tích xuất sắc trong công tác xây dựng đơn vị từ năm 1995 đến năm 1999, góp

phần xây dựng Quân đội, củng cố Quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc". Đây là lần

25



thứ tư, nhà máy được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng

Nhất.

Bước sang thế kỷ XXI, các hoạt động tranh chấp chủ quyền trên các

vùng biển thuộc vịnh Bắc Bộ, Biển Đông, khu vực Trường Sa, DK1 và vùng

biển Tây Nam tiếp tục diễn ra rất phức tạp. Để bảo vệ chủ quyền biển đảo của

Tổ quốc, Quân chủng Hải quân phải tăng cường lực lượng trực sẵn sàng chiến

đấu ở các khu vực trọng điểm, vì vậy, nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật cho Quân

chủng Hải quân được xác định vừa là nhiệm vụ cấp bách, khẩn trương trước

mắt, vừa là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, lâu dài. Xuất phát từ tình hình

đó, Quân chủng Hải quân tiến hành định hướng quy hoạch, đầu tư xây dựng

nhà máy, nhằm từng bước nâng cao năng lực và trình độ công nghệ, giúp nhà

máy phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật cho Quân chủng trong

giai đoạn mới với một số dự án trọng điểm.

Căn cứ theo quy mô tổ chức biên chế và tình hình sản xuất, kinh doanh

của nhà máy, ngày 29 tháng 4 năm 2002, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết

định đổi tên Xí nghiệp Sửa chữa tàu Hải Minh - Bộ Tư lệnh Hải quân thành

Công ty TNHH MTV đóng và sửa tàu Hải Minh - Bộ Quốc phòng.

Thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt

phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thuộc Bộ

Quốc phòng giai đoạn 2008 - 2010, ngày 31 tháng 12 năm 2008, Bộ Quốc

phòng ra quyết định công nhận Công ty Hải Minh - Quân chủng Hải quân là

công ty quốc phòng - an ninh thuộc Bộ Quốc phòng. Thực hiện quyết định

của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày 16 tháng 4 năm 2009, tại Nhà máy X51,

Quân chủng Hải quân tiến hành trọng thể lễ bàn giao các chuyên ngành của

Nhà máy X51 từ Quân chủng Hải quân về Tổng cục Công nghiệp Quốc

phòng; tiếp theo, ngày ngày 22 tháng 9 năm 2009, Tổng cục Công nghiệp

quốc phòng tiến hành bàn giao Nhà máy X51 từ Tổng cục Công nghiệp quốc

phòng về trực thuộc Xí nghiệp liên hiệp Ba Son - Tổng cục Công nghiệp quốc

phòng.

Như vậy hiện nay, Nhà máy X51 là một bộ phận trực thuộc XNLH Ba

Son vẫn đảm nhiệm vai trò sửa chửa và đóng tàu chiến như cũ.

26



2.2 Cơ cấu tổ chức của nhà máy X51

Cơ cấu tổ chức của nhà máy X51 được trình bày trong sơ đồ 2.1

BAN GIÁM

ĐỐC



KIỂM SOÁT

VIÊN



Phòng chính

trị



Phòng kế

hoạch sản

xuất



Phòng kỹ

thuật



Phòng TCLĐ



Phòng vật tư



Phòng KCS



Phòng TKCN



Phòng hành

chính



Các phân

xưởng



Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của nhà máy X51

Nhân lực cho từng bộ phận được liệt kê theo bảng 2.1 sau:

Bảng 2.1: Bảng phân bố nhân lực của X51

Bộ phận



Quân số



Bộ phận



Quân số



Ban Giám đốc



6



PX. Vỏ tàu Đ/m



94



Kiểm soát viên



1



PX. Vỏ tàu S/c



48



Phòng Chính trị



6



PX Cơ khí



25



PhòngKỹ thuật



10



PX Động lực



27



Phòng Kế hoạch sx



17



PX Ống



32



Phòng TCLĐ



5



PX Điện tàu



16



Phòng Vật tư



13



PX Vũ Khí



20



P.Hành chính



25



PX Đà đốc



22



Phòng KCS



6



PX Mộc – TT



29



Phòng Tài chính



8



PX Cơ điện



19



Phòng TKCN



17



Đội xe



10



XN D.vụ B.bãi



6



Ban ĐT-XDCB



6



XN Sơn Hải âu



64



Phòng an toàn LĐ



7



Như vậy, toàn bộ nhà máy X51 bao gồm 539 cán bộ, sĩ quan, quân

nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng. Trong đó, khối hành chính

văn phòng không tham gia vào các hoạt động KH&CN chiếm 16% (87

người). Phần còn lại là những người tham gia vào các hoạt động tại các xưởng

27



sản xuất, phòng ban liên quan đến các công tác KH&CN từ việc trực tiếp vận

hành và tham gia qui trình sản xuất đến các phòng kỹ thuật, kiểm định, nghiên

cứu ứng dụng mới …

Chính vì thế có thể thấy, lực lượng này chiếm tỷ lệ rất lớn, đây là một

trong những vấn đề cho thấy công tác đào tạo nâng cao năng lực KH&CN lên

các đối tượng này là mấu chốt cho sự phát triển bền vững của nhà máy.

Xét theo trình độ học thức, dựa theo biểu đồ 2.1 có thể thấy, mặc dù là

một trong những nhà máy về tàu biển lớn nhưng lực lượng lao động sơ và

trung cấp chiếm tới gần ¾ tổng quân số, trong khi đó chỉ có 1% (7/537) là có



Trình độ học vấn

Cao học

1%



Lao động phổ thông

6%



Đại học

19%



Cao đẳng

4%



S ơ cấp

51%



Cao học



Đại học



Trung cấp

19%



Cao đẳng



Trung cấp



Sơ cấp



Lao động phổ thông



Biểu đồ 2.1: Tóm tắt phân bổ trình độ nhân sự tại X51

trình độ sau đại học nhưng không có ai là tiến sĩ.

Thêm vào đó, khảo sát tiếp trình độ học vấn của từng phòng ban cho

thấy kết quả như trong bảng 2.2 Theo bảng này, ta thấy lực lượng có trình độ

cao tập trung chủ yếu vào ban giám đốc với 2 thạc sĩ và phòng TKCN với 3

thạc sĩ, 12 cử nhân – kỹ sư. Còn các phân xưởng thì tập trung chủ yếu là các

lao động trong đó lao động sơ cấp lại chiếm tỉ lệ cao. Phòng kỹ thuật là nơi

triển khai nhiều hoạt động KH&CN nhất nhưng cũng góp 9 quân nhân là trình

độ đại học mà không có ai sau đại học.



28



Bảng 2.2: Phân bổ trình độ nhân lực tại các bộ phận của X51

Phòng



ban/



Phân Cao



Đại



Cao



Trung



xưởng



học



học



đẳng



cấp



PX. Vỏ tàu Đ/m



0



4



1



10



79



0



PX. Vỏ tàu S/c



0



2



4



5



36



1



PX Cơ khí



0



4



1



6



14



0



PX Động lực



0



5



0



4



17



0



PX Ống



0



2



0



9



20



1



PX Điện tàu



0



1



1



5



8



1



PX Vũ Khí



0



2



0



12



6



0



PX Đà đốc



0



3



0



3



15



1



PX Mộc – TT



0



2



0



0



23



3



PX Cơ điện



0



2



3



6



8



0



Ban Giám đốc



2



4



0



0



0



0



Phòng Chính trị



0



3



1



1



1



0



PhòngKỹ thuật



0



9



0



1



0



0



Phòng Kế hoạch sx



0



5



1



3



5



3



Phòng KCS



0



5



0



0



1



0



Phòng TKCN



3



12



1



0



0



1



Sơ cấp



Lao động

phổ thông



2.3 Chính sách đào tạo nhân lực KH&CN hiện có tại Nhà máy X51

Trong những năm vừa qua, có thể nói việc thay đổi liên tục cơ cấu nhân sự và

hành chính của Nhà máy X51 đã ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách đào

tạo nhân lực KH&CN nhất là các chính sách dài hạn.

Thông qua các tài liệu thống kê và văn bản chính thức được ban hành từ Nhà

máy X51 có thể tổng kết hiện trạng các chính sách đào tạo hiện có như sau:

a. Chính sách đào tạo ngắn hạn:

-



Hiện Nhà máy X51 hầu như không có bất kỳ một kế hoạch cụ thể nào

cho việc đào tạo ngắn hạn cho đội ngũ kỹ thuật.

29



-



Việc xây dựng và thực hiện các khóa học ngắn hạn hoàn toàn do các

phòng trực thuộc trình bày và tự phát hoặc theo yêu cầu từ các dự án.

b. Chính sách đào tạo dài hạn



-



Đối với chính sách đào tạo dài hạn thì có thể nói đây là một định hướng

chiến lược của Nhà máy trong thời gian qua cho lĩnh vực hàn vỏ tàu và

vũ khí. Cụ thể:

o Chương trình đào tạo dài hạn thợ hàn quốc tế được thực hiện liên

tục với sự phối hợp của các đối tác nước ngoài.

o Chương trình nâng cấp và sửa chửa vũ khí khí tài cho hải quân được

đầu tư bài bản từ ngân sách và yêu cầu từ quốc phòng vì thế lĩnh

vực này có chính sách đào tạo rất tốt với sự giúp đỡ từ Nga.



-



Thế nhưng, các mảng khác thì vẫn chưa có chính sách nào cụ thể, vẫn

mang tinh khuyến khích tự học tự nâng cao trình độ là chính.

c. Chính sách lựa chọn cán bộ đào tạo



-



Do trong những năm gần đây có sự thay đổi hành chính của Nhà máy nên

việc quy hoạch và lựa chọn cán bộ đào tạo tạm thời bỏ ngỏ. Duy chỉ có

hai lĩnh vực hàn vỏ tàu và vũ khí là tiếp tục lựa chọn cán bộ trong đó tập

trung chủ yếu vào thợ bậc cao.

d. Chính sách khuyến khích học tập và khen thƣởng



-



Có thể nói đây là điểm yếu nhất trong chính sách của Nhà máy X51 khi

mà không có bất kỳ một văn bản, kế hoạch hay thông báo nào cho cán bộ

được học tập, hay nâng cao tay nghề sẽ được hưởng ưu đãi gì? Khen

thưởng ra sao?.



2.4 Thực trạng chính sách đào tạo nhân lực KH&CN tại Nhà máy X51.

2.4.1 Cách thức lựa chọn mẫu

Để tiến hành đánh giá thực trạng công tác đào tạo nhân lực khoa học công

nghệ tại X51, trong luận văn đã tiến hành lựa chọn mẫu bằng hai cách:

- Chọn ra tất cả các chương trình đào tạo và chương trình đào tạo chính

thức của Nhà máy X51 đối với các quân nhân trong công ty để đánh

giá.

- Trong số các quân nhân tiến hành lựa chọn ngẫu nhiên:

30



o 35 quân nhân trình độ trung cấp (60%).

o 13 quân nhân trình độ cao đẳng (100%).

o 35 quân nhân trình độ đại học (60%).

- Phỏng vấn về chính sách đào tạo của Nhà máy X51 quan việc phỏng

vấn ban giám đốc.

2.4.2 Nội dung khảo sát

- Tổng hợp thông tin về quân nhân có trình độ từ trung cấp đến cao học

biến động trong suốt 5 năm qua dựa trên số liệu nhân lực của X51.

- Tổng hợp thông tin về quân nhân trong công ty tiếp tục học tập lên

trình độ cao hơn sau khi đã làm việc tại X51 trong 5 năm qua.

- Tiến hành khảo sát trực tiếp các quân nhân về các chương trình đào tạo

của X51 trong 5 năm qua bao gồm:

 Thời gian đào tạo.

 Nội dung được đào tạo.

 Chu kỳ đào tạo.

 Các chính sách khuyến khích của Nhà máy X51 cho quân nhân

học tập cao hơn.

 Sự đánh giá của quân nhân về cách thức đào tạo cũng như

khuyến khích học tập của Nhà máy X51 trong thời gian qua.

 Các vấn đề liên quan khác.

2.4.3 Kết quả thu nhận

2.4.3.1 Phương pháp luận

Việc khảo sát được thực hiện thông qua các tài liệu thống kê về nhân sự

của Nhà máy X51 trong suốt thời gian 2006 đến hết 2012. Thêm vào đó là

tổng hợp các nghiên cứu của Nhà máy X51 và các chương trình hỗ trợ trình

độ cho quân nhân của Nhà máy X51 có liên quan đến KH&CN trong suốt

thời gian 5 năm và kế hoạch triển khai đến 2015.

Tiếp theo đó là khảo sát trực tiếp bằng bảng câu hỏi đối với các quân

nhân trình độ từ đại học đến trung cấp. Sau đó chọn ra 15 quân nhân trình độ

đại học và toàn bộ 3 quân nhân cao học tiến hành phỏng vấn sâu về chính

sách đào tạo của Nhà máy X51.

31



2.4.3.2 Phương thức thực hiện:

Việc xử lý các thông tin tìm hiểu và khảo sát được thực hiện theo

phương thức :

Tổng hợp các dữ liệu thu nhận được qua việc tìm hiểu và khảo sát trực

tiếp tại các quân nhân. Tiến hành việc sàng lọc, phân loại và sắp xếp các

thông tin theo từng nhóm vấn đề. Sử dụng công cụ thống kê để phân tích,

đánh giá và chuẩn hóa thông tin đã thu thập được từ quá trình tìm hiểu và

khảo sát nhằm có cơ sở cho việc đưa ra những kết luận mang tính khách quan

và xác thực.

2.4.3.3 Kết quả thu được

A. Kết quả thu được từ phân tích số liệu nhân lực trong 5 năm qua

Trong suốt 5 năm từ giữa năm 2006 đến hết quý 2 năm 2012 có thể nói

là thời gian có nhiều sự biến động lớn của Nhà máy X51 khi liên tục thay đổi

về mặt hành chính. Như quan sát trong biểu đồ 2.2, có thể thấy trong năm

2009 có sự biến động lớn về số lượng do quá trình sát nhập vào XNLH Ba

Son nên có sự chuyển dịch nhân sự. Sau đó giảm nhẹ đến năm 2012 do khủng

hoảng kinh tế và khó khăn của ngành đóng tàu Việt Nam nói chung.



Biểu đồ 2.2: Biến động nhân lực tại Nhà máy X51

Xét về lực lượng thì ít thấy sự thay đổi nào trong Nhà máy X51, thế

nhưng về chất có thể thấy được rằng trong suốt 5 năm vừa qua đã có một sự

32



sụt giảm đối với những quân nhân có trình độ cao như trong bảng 2.3 so sánh

năm 2006 và 2012 sau:

Bảng 2.3: So sánh trình độ quân nhân năm 2006-2012

Cao học



Đại học



Cao đẳng



Trung cấp



2006



9



70



20



40



2012



5



65



13



65



Sự sụt giảm về số quân nhân có trình độ Thạc sĩ là do tuổi tác. Như vậy

có thể nói trong suốt 5 năm qua hoàn toàn không có thêm quân nhân mới nào

có trình độ sau đại học. Về quân nhân có trình độ đại học thì hầu hết hơn 80%

(60 quân nhân) đều là những người đã làm việc từ 2006 đến 2012, một số ít

nghỉ hưu ngoài ra thêm vào đó là bổ xung thêm 8 quân nhân. Thế nhưng trong

số bổ xung này không có ai là học lên từ cao đẳng đã làm việc trước tại Nhà

máy X51. Điều này cho thấy trong suốt 5 năm qua không có quân nhân làm

việc trong Nhà máy X51 tiếp tục học lên mà chủ yếu lực lượng hiện tại là do

tuyển dụng mới mà có.

Đối với khảo sát về các chương trình đào tạo dành cho quân nhân trong

suốt thời gian 5 năm qua, bỏ qua các vấn đề đào tạo về chính trị và quốc

phòng, xét về việc đào tạo về tay nghề của quân nhân có trình độ trung cấp thì

có thể tóm tắt trong bảng 2.4.

Bảng 2.4: Thống kê về số lượng chương trình đào tạo cho quân nhân tại Nhà

máy X51

2007



2008



2009



2010



2011



Số lần học tập 1



1



3



2



2



Thời gian



1 tháng



1 tháng



1 tháng



1 tháng



1 tháng



Như vậy có thể thấy trong 1 năm nhất là 3 năm gần đây nhất luôn có ít

nhất 2 lần quân nhân trung cấp được tập huấn nâng cao tay nghề với mỗi lần

kéo dài khoảng 1 tháng. Thế nhưng hiệu quả của những lần tập huấn này thật

sự đáng quan tâm khi mà khảo sát qua nội dung thì nhận thấy 80% nội dung

trong các đợt này đều là giống nhau với những nội dung rất chung chung như

33



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

×